Dinh Gia Long

Tọa lạc trên một khu đất rộng gần 2 ha, giới hạn bởi các con đường Lý Tự Trọng, Pasteur, Lê Thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa.

Dinh Thống Đốc Nam Kỳ (Dinh Phó Soái)
Dinh Thống Đốc Nam Kỳ (Dinh Phó Soái)

Thời Pháp thuộc

Khởi đầu, tòa nhà Bảo tàng được khởi công xây dựng vào năm 1885 và hoàn thành năm 1890 theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Alfred Foulhoux với mục đích sử dụng làm Bảo tàng Thương mại để trưng bày sản phẩm Nam Kỳ. Tuy nhiên, ngay sau khi xây xong, tòa nhà lại được Thống đốc Nam kỳ Henri Eloi Danel (1850 – 1898) dùng làm tư dinh. Về sau, tòa nhà được sử dụng hẳn làm dinh Thống đốc hay còn gọi là dinh Phó soái (trước năm 1911).

Thời Đệ nhị Thế chiến

Năm 1945, dinh Thống đốc nhiều lần đổi chủ. Sau khi quân Nhật tiến hành đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3, Thống đốc người Pháp Ernest Thimothée Hoeffel bị bắt; Thống đốc người Nhật là Yoshio Minoda sử dụng tòa nhà làm dinh thự.

Ngày 14 tháng 8, người Nhật giao lại dinh thự cho chính quyền Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam để làm dinh Khâm sai Đại thần Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm.

Đến ngày 25 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền, bắt giam Khâm sai Nguyễn Văn Sâm và Đổng lý văn phòng phủ khâm sai Hồ Văn Ngà tại dinh khâm sai. Sau đó, dinh trở thành trụ sở Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, rồi của Ủy ban Nhân dân Nam Bộ.

Ngày 10 tháng 9, Trung tá B. W Roe (phái bộ quân sự Anh) chiếm dinh làm trụ sở Phái bộ Đồng minh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam Bộ phải dời về dinh Đốc lý.

Đến ngày 5 tháng 10, dinh được tướng Leclerc dùng làm Phủ Cao ủy Cộng hòa Pháp tạm thời. Sau khi Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Đông Dương là Đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu chọn dinh Norodom làm Phủ Cao ủy, thì dinh lại trở thành nơi làm việc của tướng Leclerc, nhưng lần này với danh nghĩa chính thức là trụ sở của Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt Nam.

Trụ sở của Nam Kỳ Quốc
Năm 1948, trụ sở của Nam Kỳ Quốc

Nam Kỳ Quốc và Quốc gia Việt Nam

Sau khi tái chiếm Đông Dương, ngày 23 tháng 5 năm 1947, chính quyền Pháp đã bàn giao dinh cho Thủ tướng Lê Văn Hoạch để làm trụ sở chính phủ Nam kỳ quốc. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được thành lập và dinh được sau đó chuyển thành dinh Tổng trấn (sau đổi thành Thủ hiến) Nam phần dưới quyền sử dụng của Thủ hiến Trần Văn Hữu.

Tại đây, ngày 9 tháng 1 năm 1950, đã nổ ra một cuộc biểu tình lớn của hơn 6000 học sinh-sinh viên và giáo viên các trường, yêu cầu thả ngay những học sinh, sinh viên bị bắt vô cớ trước đó. Lúc 13 giờ chiều ngày hôm đó, chính quyền của thủ hiến Trần Văn Hữu đã huy động một lực lượng lớn cảnh sát để đàn áp, bắt giữ 150 người, đánh 30 người trọng thương tại chỗ, học sinh trường Petrus Ký là Trần Văn Ơn đã bị trúng đạn tử thương. Sự kiện này đã dẫn đến đám tang Trần Văn Ơn ngày 12 tháng 1 năm 1950, có đến 25.000 người tham gia.

Đảo chánh 1963
Quân đảo chánh trong dinh năm 1963. Trên tường đầy những vết đạn.

Việt Nam Cộng hòa

Sau Hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm về Sài Gòn nhận chức thủ tướng. Vì dinh Norodom còn do Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely đang sử dụng, nên dinh trở thành dinh Thủ tướng tạm thời từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 7 tháng 9 năm 1954. Dinh cũng được Quốc trưởng Bảo Đại đặt cho tên mới là dinh Gia Long. Con đường La Grandìere trước mặt cũng được đổi tên thành đường Gia Long.

Sau cuộc trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm dời phủ tổng thống sang đây và ở đây cho đến ngày bị đảo chính lật đổ vào tháng 11 năm 1963.

Trong thời gian 1964 –1965, dinh được dùng làm dinh Quốc trưởng. Ngày 31 tháng 10 năm 1966, khi dinh Độc Lập xây lại xong, tòa nhà này được dùng làm trụ sở của Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Bảo tàng TPHCM
Bảo tàng TPHCM ngày nay

Sau năm 1975

Sau 1975, tòa nhà tạm thời không dùng cho mục đích cụ thể nào. Ngày 12 tháng 8 năm 1978, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định sử dụng tòa nhà này làm Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 13 tháng 12 năm 1999 thì đổi tên thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay. Bảo tàng giới thiệu sự hình thành cũng như phát triển của Sài Gòn, các di tích khảo cổ, hiện vật về những sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, văn hóa gắn liền với Sài Gòn.

Kiến trúc

Tổng diện tích của kiến trúc bao gồm một tòa nhà rộng hơn 1.700 m² gồm hai tầng của tòa nhà chính và tòa nhà ngang thiết kế theo phong cách cổ điển – phục hưng, kết hợp Âu – Á: mặt tiền của tầng lầu mang đường nét Tây phương, nhưng phần mái lại mang dáng dấp Á Đông. Bao quanh khu nhà là một khuôn viên vườn hoa có hình dạng như một hình thang bao quanh bởi 4 con đường đã kể trên.

Do mục đích ban đầu của tòa nhà là Bảo tàng Thương mại trưng bày những sản vật trong nước, vì thế ở hai bên cửa chính có 2 cột trụ trang trí bằng hai tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp. Ngay phần chóp trên mái tam giác ở mặt phía trước được trang trí bằng một tượng đầu người nghiêm trang. Hai bên trang trí bằng các họa tiết đắp nổi như cành dương liễu, tràng hoa lá bao xung quanh, rắn khoanh tròn, hình tượng con gà tượng trưng cho ban ngày và chim cú tượng trưng cho ban đêm ở hai góc, một vòng hào quang phía sau đầu tượng.

Nhiều họa tiết khác đắp nổi trên mái là sự kết hợp giữa các biểu tượng thần thoại Hi Lạp và hình tượng cây cỏ và thú vật vùng nhiệt đới như họa tiết thằn lằn và chim cao cẳng chuyển động bằng cách uống cong hoặc xòe cánh.

Bảo tàng thương mại
Bảo tàng thương mại với 2 tượng nữ thần công nghiệp và thương nghiệp

Năm 1943, Thống đốc Nam Kỳ Ernest Thimothée Hoeffel lại cho phá bỏ hai tượng nữ thần tại cửa chính của dinh để xây dựng một mái hiên.

Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị lực lượng đảo chính ném bom, Tổng thống Ngô Đình Diệm dời về dinh Gia Long và cho xây dựng hầm bí mật trong dinh. Theo hồ sơ lưu trữ, hầm được xây dựng từ tháng 5 tháng 1962 đến tháng 10 năm 1963 thì xong, với tổng kinh phí 12.514.114 đồng lúc bấy giờ, và theo bản thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

Sự thật về căn hầm trong Dinh Gia Long

Ngày 27/2/1962, xảy ra vụ đảo chính, ném bom Dinh Độc Lập mưu sát gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm. Mặc dù cuộc mưu sát không thành nhưng sự kiện này khiến Ngô Đình Diệm lo sợ cho số phận của mình.

Ông ta liền dời về Dinh Gia Long và quyết định cho xây dựng một đường hầm bí mật để trú ẩn. KTS Ngô Viết Thụ được Ngô Đình Diệm tin cẩn giao cho việc vẽ bản thiết kế xây dựng đường hầm này. Sau khi KTS Ngô Viết Thụ sang Mỹ, Kỹ sư Phan Đình Tăng- Giám đốc Nha Kiều lộ là người duy nhất được giao nhiệm vụ thi công, kiểm soát nghiên cứu lại đồ án và hoàn tất bản vẽ.

Hầm được nhà thầu Trương Đăng Khoa xây dựng từ tháng 5/1962, đến ngày 30/10/1963 thì hoàn tất với tổng kinh phí là 12.514.114 đồng (tiền thời đó). Hầm được đào sâu xuống mặt đất 4 m, đúc bằng xi măng cốt sắt (170kg sắt/m3 bê tông), tường dày 1 m.

Với thiết kế này, các lọai trọng pháo và bom 500kg nếu có oanh tạc vào dinh cũng không làm sập hầm. Hầm có 6 cửa bằng sắt, đóng mở bằng cách xoay một bánh lái như cửa tàu thủy, phía trong còn có chốt sắt thật lớn để cài khi có sự cố.

Phần mặt đất phía trên nắp hầm được ngụy trang bằng những chậu cây cảnh. Trong hầm có hệ thống thông gió, hệ thống điện thắp sáng, hệ thống nước sạch và cống dẫn nước thải, nước mưa.

Tổng diện tích mặt bằng hầm là 1392,3m2 (30,6×45,5). Từ trên xuống hầm theo 2 đường cầu thang A (hướng đường Nam Kỳ khởi nghĩa) và cầu thang B (hướng đường Pasteur). Theo đường cầu thang A xuống gặp 2 phòng liền nhau: Phòng khách và phòng vệ sinh.

Theo đường cầu thang B xuống gặp phòng máy đèn. Từ phòng này đi xuống gặp ngay phòng của Ngô Đình Nhu và kế bên là phòng Ngô Đình Diệm với diện tích 17m2.

Phòng Ngô Đình Diệm đặt 1 chiếc bàn vuông, một cái bệ nhỏ và hệ thống thông tin liên lạc. Hầm có lối ra một lô cốt hướng đường Nam kỳ khởi nghĩa và 6 lỗ thông gió, 2 lỗ thoát nước bẩn.

Do yêu cầu bí mật, các giấy tờ liên quan đến việc xây dựng hầm trước ngày 11/11/1963 (ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ) đều tránh nêu từ “Hầm” mà chỉ là “Công tác xây cất ở Dinh Gia Long).

Hầm được xây trong thời gian gấp rút nên chưa trang bị các vật dụng tiện nghi. Thậm chí, đến khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, một hạng mục rất cần thiết có trong dự trù vẫn chưa hoàn thành, đó là hệ thống máy quạt để điều hoà không khí dù máy quạt đã được nhập về để ở Sở Nội dịch.

Ngày 1/11/1963, quân đảo chính đã tấn công vào hầm. Tại đây còn một lá cờ trắng, một số tài liệu viết tay ghi lại những cuộc điện đàm tại phòng của Ngô Đình Diệm.

6 giờ 45 phút ngày 2/11/1963, Dinh Gia Long thất thủ. Đúng vào thời điểm này, 2 ông Diệm và Nhu đang cầu kinh tại nhà thờ Francisco Xavier (Nhà thờ Cha Tam).

Do có mật báo nên vài phút sau đó, quân đảo chính đã cho chiếc M.113 đến nhà thờ Cha Tam. 2 ông bị trói đưa lên xe rồi bị đánh đập và bị bắn chết trên đường đi.

Xem clip về đường hầm trong Dinh Gia Long:

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=sZYIOa2R1sY]Nguồn: Wikipedia, Tiền Phong.

Đường Hải Triều

Từ đường Nguyễn Huệ đến Hồ Tùng Mậu dài 170m, lộ giới 20m.

Vị trí: đường Hải Triều nằm trên địa bàn phường Bến Nghé quận I, khởi đầu từ đường Hồ Tùng Mậu đến đường Nguyễn Hụê, dài khoảng 100m. Đường lưu thông một chiều theo hướng từ Hồ Tùng Mậu đến Nguyễn Hụê.

Lịch sử: đường này thời Pháp thuộc là đường hẻm, lúc đầu chưa có tên, ngày 27-8-1926 người Pháp đặt tên là đường Phủ Kiệt. Ngày 4-4-1985, UBND thành phố đổi tên là đường Hải Triều cho đến nay.

Đường Phủ Kiệt vào thập niên 50. Tòa nhà mái ngói bên trái là Bitexco ngày nay. Ảnh: Carl Mydans
Đường Phủ Kiệt vào thập niên 50. Tòa nhà mái ngói bên trái là Bitexco ngày nay. Ảnh: Carl Mydans
Đường Phủ Kiệt vào thập niên 50. Tòa nhà mái ngói bên phải là ngân hàng Pháp Hoa (SFFC). Ảnh: Carl Mydans
Đường Phủ Kiệt vào thập niên 50. Tòa nhà mái ngói bên phải là ngân hàng Pháp Hoa (SFFC). Ảnh: Carl Mydans
Góc Võ Di Nguy (Hồ Tùng Mậu) và Phủ Kiệt (Hải Triều) năm 1950. Tòa nhà mái ngói là Bitexco hiện nay. Ảnh: Carl Mydans
Góc Võ Di Nguy (Hồ Tùng Mậu) và Phủ Kiệt (Hải Triều) năm 1950. Tòa nhà mái ngói là Bitexco hiện nay. Ảnh: Carl Mydans
Ngân hàng Pháp Hoa (SFFC) nằm giữa quảng trường Gabetta và Bvd De la Somme (góc đường Hải Triều và Hàm Nghi ngày nay)
Ngân hàng Pháp Hoa (SFFC) nằm giữa quảng trường Gabetta và Bvd De la Somme (góc đường Hải Triều và Hàm Nghi ngày nay)

Đường Chu Mạnh Trinh

Từ đường Lê Thánh Tôn đến đường Nguyễn Du dài 387m, lộ giới 20m.

Vị trí: Đường này nằm trên địa bàn phường Đakao, Quận I, khởi đầu từ đường Lê Thánh Tôn đến đường Nguyễn Du qua các ngã tư Lý Tự Trọng và ngã ba Nguyễn Trung Ngạn. Đường lưu thông 2 chiều.

Lịch sử: Đường là một trong các đường cổ nhất của Sài Gòn. Từ ngày 2-6-1871, gọi là đườn Phnom Pênh, đến ngày 24-2-1897, đổi là đường Lafont. Sau năm 1954 vào ngày 19-10-1955 chính quyền Ngô Đình Diệm đổi tên là đường Chu Mạnh Trinh. Từ ngày 30-4-1975 vẫn dung tên này cho dến nay.

Đường Chu Mạnh Trinh năm 1963, sau cuộc đảo chính. Photo by Pete Komada
Đường Chu Mạnh Trinh năm 1963, sau cuộc đảo chính. Photo by Pete Komada
Đường Chu Mạnh Trinh năm 1963, phía trước là ngã 3 giao với Nguyễn Du. Photo by Pete Komada
Đường Chu Mạnh Trinh năm 1963, phía trước là ngã 3 giao với Nguyễn Du. Photo by Pete Komada

 

Đường Hồ Tùng Mậu

Từ đường Chương Dương đến Tôn Thất Thiệp, dài 426m, lộ giới 20m.

Vị trí: đường Hồ Tùng Mậu nằm trên địa bàn phường Bến Nghé quận I khởi đầu từ đường Chương Dương đến đường Tôn Thất Hiệp, qua ngã ba Nguyễn Công Trứ bên trái, ngã tư Hàm Nghi và các ngã ba Hải Triều, Ngô Đức Kế bên phải; ngã tư Huỳnh Thúc Kháng. Đường lưu thông một chiều theo hướng cầu Khánh Hội vào đường Tôn Thất Thiệp.

Lịch sử: đường này thuộc loại xưa nhất vùng Sài Gòn, thời Pháp thuộc lúc đầu mang tên đường Adran. Từ ngày 26-4-1955 chính quyền Sài Gòn đổi tên là Võ Di Nguy. Ngày 4-4-1985, UBND thành phố đổi là đường Hồ Tùng Mậu như hiện nay.

Rue d'Adran năm 1910
Rue d’Adran năm 1910
Rue d'Adran
Rue d’Adran
Rue d'Adran, phía sau Chợ cũ
Rue d’Adran, phía sau Chợ cũ
Quân Nhật vào Sài Gòn từ đầu đường Rue d'Adran, từ phía Cầu Quay năm 1941
Quân Nhật vào Sài Gòn từ đầu đường Rue d’Adran, từ phía Cầu Quay năm 1941
Tiệm chạp phô góc Hàm Nghi và Võ Di Nguy năm 1965
Tiệm chạp phô góc Hàm Nghi và Võ Di Nguy năm 1965
Đường Võ Di Nguy năm 1965, vẫn còn các kios bán đồ dùng học tập cho học sinh
Đường Võ Di Nguy năm 1965, vẫn còn các kios bán đồ dùng học tập cho học sinh
Từ năm 1956 đổi tên là Võ Di Nguy
Từ năm 1956 đổi tên là Võ Di Nguy
Tòa đại sứ Mỹ năm 1965, góc Hàm Nghi và Võ Di Nguy
Tòa đại sứ Mỹ năm 1965, góc Hàm Nghi và Võ Di Nguy
Góc đường Võ Di Nguy và Hàm Nghi, nay là bánh mì Như Lan
Góc đường Võ Di Nguy và Hàm Nghi, nay là bánh mì Như Lan

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng

Lẩn thẩn ngược dòng thời gian mới thấy, xứ ta xưa nay danh tiếng giai nhân thời nào cũng có, từ bậc anh thư thời dựng nước như Dương Vân Nga – bà hoàng mà tâm hồn và nhan sắc đã chinh phục hai vị danh tướng, về sau cùng là hai vị vua. Hoặc như bậc thi sĩ văn nhân có tiếng nhan sắc lại đa tình như Hồ Xuân Hương, thời phong kiến, trót sanh ra làm phận nữ nhi mà cũng thuyền năm bảy bến, lại dập dìu văn nhân tài tử tới lui, xét ra nhan sắc cũng không phải hạng thường tình. Đáng tiếc thay, hình dung nhân dạng các vị này thuở ấy đến nay không có gì lưu giữ, nên vĩnh viễn thuộc về lòng yêu kính trong nhân gian mà đúc tượng vẽ tranh, chứ không ai tường tận nhan sắc các bà đến bực nào sánh với kì tài, danh tiếng.

nguoiduatin-Nguyen Huu Thi  Lan2

Còn lưu giữ hình ảnh đến nay, duy chỉ còn Hoàng hậu Nam Phương. Xứng danh là một bà hoàng cuối cùng của Việt Nam, ngoài nhan sắc vừa cao quý sang cả vừa nhu thuận nền nã, đúng chuẩn mũi dọc dừa, cổ cao ba ngấn và khuôn diện đăng đối, là người theo Tây học, vừa rành ngoại ngữ, vừa khéo phục tòng nhẫn nhịn vị cựu hoàng phong nhã. Nhưng rồi tấm hồng nhan dòng dõi ấy cũng qua đời nơi viễn xứ, viên bảo ngọc cuối cùng của vương triều một quốc gia giờ chỉ còn một phiến đá sơ sài khắc dòng chữ ngoại bang ici repose l’impératrice d’annam née marie thérèse nguyen huu thi lan.

NHỮNG NHAN SẮC HUYỀN THOẠI

Về sau, những huyền thoại nhan sắc đã làm nàng thơ của bao văn nhân thi sĩ, những cô đào, kỹ nữ nổi tiếng, những người tiên phong cho trào lưu thẩm mỹ một thời trong nữ giới Việt Nam như cô ba Trà, mệnh danh bà hoàng vũ trường, sòng bài Saigon hồi cuối thế kỷ 19. Theo những ghi chép lại của nhà Sài-gòn học Vương Hồng Sển, cuốn Sài-gòn Tạp-pí-lù, thì người này chính là giai nhân đã khuynh đảo mà thành cuộc chiến bất phân thắng bại giữa Bạch Công tử và Hắc Công tử, về sau thành huyền thoại đặc trưng Nam bộ của Công tử Bạc Liêu, đốt tiền soi lối cho người đẹp. Cô cũng một thời là người trong mộng của tác giả Vương Hồng Sển. Quả tình, sức quyết rũ của Cô Ba Trà phải mạnh mẽ mê hoặc lắm, mới khuynh đảo bao nam nhân lẫy lừng cùng thời, từ những vị thiếu gia miệt tỉnh, đến các quý ông học vị học hàm thành thị, cho chí văn nhân đa tình như văn sĩ họ Vương.

Nhưng mạn phép thầy Vương Hồng Sển mà nói, thì như Cô Ba Trà đây, dẫu kiều mị cỡ nào, cũng không thoát cái tiếng thường tình nữ nhi mà để đời xô đẩy, về sau cũng vì chuộng sân si phù phiếm mà dựa vào đàn ông mà thành danh, gọi là cái tài rù quến đàn ông, vậy thử hỏi, không có đàn ông, liệu Cô Ba Trà còn tài cán chi lưu danh cùng nữ nhi hậu thế? Vậy, xét ra, nhan sắc lẫy lừng nọ cũng còn chưa đủ để phác nên nét mặt đàn bà nước Nam. Vả chăng, dẫu cô Ba Trần Ngọc Trà danh sắc lẫy lừng là vậy, đến nay dường như tư liệu hình ảnh về cô cũng tìm không thấy có.

20110521130130_Tra

Sở dĩ phải gọi đầy đủ là Cô Ba Trà như vậy, là để phân biệt với Cô Ba có hình trên hộp xà-bông của hãng Xà-bông Việt-nam đầu thế kỷ 20, từng là hoa khôi chính thức (tức là có giải, có giám khảo chấm bầu hẳn hòi). May thay, hình ảnh về cô nay vẫn còn phổ biến nhất là tấm hình chân dung trên hộp xà-bông, vốn của ông Trương Văn Bền, đặt tên là hàng Xà-bông Việt-nam, nhưng sản phẩm in hình cô, về sau mặc tình lấy tên người đẹp trong hình mà gọi, thành ra cái tên Xà-bông Cô Ba đến này vẫn còn nằm trong tiềm thức của người Sài-gòn.

Nhắc đến đây, phải nói là nếu ngành người mẫu Việt Nam có tổ nghiệp riêng thì đó ắt phải là Cô Ba. Cùng với hình ảnh và danh thơm của mình, hãng xà-bông của ông Trương Văn Bền đã là sản phẩm nội địa đầu tiên của doanh giới Việt Nam thách thức tên tuổi đại gia là hãng xà-bông Marseille trứ danh của người Pháp, vốn trước đó vẫn độc quyền thao túng thị trường bản xứ, đúng là xứng đáng rạng danh cho cả thương nhân lẫn người đẹp Việt Nam thời đó.

Theo tư liệu ghi lại, dung mạo Cô Ba được mô tả như sau: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến có cô Ba, con gái thầy thông Chánh là đẹp không ai bì, đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi Nhà nước in hình vào con tem Nhà Thơ Dây Thép (Bưu điện)” (Sài-gòn Năm Xưa, Vương Hồng Sển), mới nghe đã thấy mồn một vẻ khả ái thanh tao lại chừng mực, đoan trang. Cô Ba lập gia đình và sống một cuộc sống bình thường.

Chỉ về sau, có tư liệu cho rằng cô Ba là “người đã dám cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin, bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19.6.1893 và bị xử tử ngày 18.1.1894 tại Trà Vinh” (Hỏi đáp về Saigon-Tp.Hồ chí Minh, nhiều tác giả, NXB Trẻ, tháng 06 2006). Chuyện này cũng là ước chừng nghe vậy, chưa có bằng cớ xác thực. Cũng biết đâu chừng, phàm thói người hễ là bậc giai nhân tiếng tăm lẫy lững, phải có chút tiểu tiết ba đào mới vừa bụng.

20110521130130_Tra

Ngoài ra, cùng thời với Cô Ba “Xà-bông” và Cô Ba Trà còn có rất nhiều huyền thoại về những nhan sắc Sài-gòn thời ấy, nhưng vẫn hầu hết vẫn là những giai thoại truyền khẩu, qua mỗi miệng kể lại càng thêm phần ma mị, huyễn hoặc, khó phân biệt thực hư. Như chuyện ái nữ của Chú Hỏa – đại hào phú trứ danh của Chợ Lớn, cùng kết cục bi đát do mắc bệnh phong cùi hay tâm thần chi đó mà chết trẻ, hay chuyện cô Marriane Nhị (Tư Nhị), có thời theo chân Yvette Trần Ngọc Trà, khuynh đảo bao thiếu gia hiếu sắc, tưởng sẽ hưởng buổi mãn khai trong nhung lụa, nhưng về sau, lần cuối cùng được nhìn thấy đã thành người đàn bà hành khất, kéo lê cuộc sống thương tật trên hè phố Sài-thành,…

Độ giữa thế kỷ 20, tên tuổi các người đẹp Sài-gòn phồn hoa trở nên phong phú hơn bao giờ hết. Hầu hết là hàng minh tinh cinema, đào tuồng, giới ca sĩ, vũ nữ phòng trà, kể cả chính giới…

Trần Lệ Xuân
Trần Lệ Xuân

Một trong những dung nhan khuynh đảo chính trị thời này phải kể đến bà đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân. Bản lãnh, sắc sảo và đa tình, cũng là người khởi xướng mốt áo dài cổ thuyền (sau này gọi là áo dài Trần Lệ Xuân) thêu cây trúc quân tử lộn ngược một cách ngạo nghễ.

Bà ngạo mạn tự ví mình với Marie Antoinette, với Trưng Vương đâm ra làm lắm chuyện vừa xấc xược thuần phong, vừa ngô nghê nực cười, khiến về sau, khi đã lưu vong tha hương, còn chăng trong dòng sử sắc đẹp chỉ một nét ố. Tiếc thay cho tấm hồng nhan, ghê gớm thay cho phận đàn bà cuồng vĩ.

Thời may, thập niên 70 còn có hai tên tuổi trứ danh nhất là nữ minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng và cố nghệ sĩ cải lương Thanh Nga.

Thẩm Thúy Hằng, được mệnh danh “Người đẹp Bình Dương” theo một phim nổi tiếng do cô thủ diễn. Khi nhan sắc mới được phát hiện, cô đẹp mơn mởn thanh xuân, khi đã nổi danh, những mong níu kéo lòng yêu mến của dân mộ điệu, lại nhờ thuật “gia cố” của phẫu thuật thẩm mỹ, trông lại càng vô cùng lộng lẫy. Cô đã từng hai lần đoạt giải Nữ Minh tinh Xuất sắc Á Châu tại Liên hoan Phim Đài Bắc, hai lần Ảnh hậu Á châu, danh hiệu Nữ Diễn viên Khả ái Nhất tại Liên bang Xô viết. Về sau trong dân gian, có nghe mấy câu vè ngộ nghĩnh rằng :

Nếu biết rằng em đã lấy chồng
Anh về lấy vợ, thế là xong.
Vợ anh chẳng đẹp bằng em mấy,
Chỉ đẹp xêm xêm…Thẩm Thúy Hằng

Thẩm Thúy Hằng
Thẩm Thúy Hằng

Vậy mới biết nhan sắc cô Thẩm này ngày xưa đã mặc nhiên được công nhận mà không cần trải qua sự kiểm duyệt của bất cứ ban giám khảo hoa hậu nào. Chỉ tiếc rằng, về sau, nhan sắc bị hủy hoại bởi hóa chất thẩm mỹ, công chúng ái mộ không còn được chiêm ngưỡng đóa hương sắc một thời ấy. Cô từ chối mọi cuộc tiếp xúc với công chúng, nghiên cứu Thiền học, chay trường và rất hiếm khi ra ngoài. Gần đây, lại thấy cô xuất hiện trên văn đàn với những kịch bản sân khấu và điện ảnh, như một cách tìm về với khán giả tri âm. Chỉ đến khi Thẩm Thúy Hằng đã rút về ở ẩn, ăn chay trường, người ta mới quên đi vẻ thiên kiều bá mị mà nhìn nhận ra tâm hồn và tài năng của người đẹp, hay phải chăng, đây mới là cái buổi mà nhan sắc tâm hồn đã tới kỳ viên mãn. Không khỏi ray rứt lòng người mộ điệu, trách cho oái oăm oan nghiệt của hồng nhan, lại càng trách cho nhan sắc mặn mòi thanh xuân là vậy, giá chi đừng nông nổi tham lam níu kéo, đã không nên đời bạc phận.

Cho đến tận ngày nay, lịch sử nhan sắc Việt Nam vẫn chưa lặp lại một tên tuổi nào có sức ảnh hưởng sâu rộng đến vậy.

Thanh Nga
Thanh Nga

Cùng thời với nghệ sĩ ưu tú Thẩm Thúy Hằng là tên tuổi của người được mệnh danh là “bà hoàng sân khấu” của miền Nam trước và cả sau 1975 – nghệ sĩ nhân dân Thanh Nga. Mái tóc mây dài và khuôn mặt trái xoan chuẩn mực, có thể ví cô với một dung nhan đăng đối, quý phái kiểu Audrey Hepburn của Hollywood vậy. Nghệ sĩ Thanh Nga có thể được xem là một tên tuổi được yêu mến nhất của nghệ thuật cải lương cho đến tận bây giờ, phải chăng, một phần cũng vì phát súng oan nghiệt đã chấm dứt cuộc đời cô khi tài, danh, và sắc đẹp đang ở đỉnh điểm, để lại phía sau không chỉ một huyền thoại về thanh sắc độc nhất vô nhị, mà còn là lòng yêu mến ngưỡng mộ cho đến tận bây giờ.

“ẢNH HẬU NHÂN DÂN” VÀ DANH HIỆU HOA KHÔI

Về sau, có lẽ chỉ với sự xuất hiện của nữ nghệ sĩ Diễm My, thì công chúng Việt Nam mới được một lần nữa nhìn ngắm nhan sắc kinh điển quý phái và mái tóc dài tương tự như vãn ảnh của cố nghệ sĩ Thanh Nga, tuy với đôi mắt sâu và sống mũi rất “Tây”. Tên tuổi rực rỡ nhất vào những năm 80 thế kỷ 20, khi mà nghề người mẫu còn vô cùng xa lạ tại Việt Nam, nghệ sĩ Diễm My đã tình cờ đi vào lòng công chúng không phải qua lãnh vực tân kịch hay điện ảnh mà là qua chính hình ảnh của mình, đặc biệt là qua ống kính phát hiện của nhiếp ảnh gia Nguyễn Kỳ. Cũng một phần với sự phát triển vượt trội về in ấn và xuất bản trong thành phố Hồ Chí Minh mà lịch và hình ảnh Diễm My cũng được tiêu thụ rộng rãi tại thị trường phía Bắc. Trong rất nhiều năm liên tiếp, hình ảnh của cô trên tờ lịch xuân mỗi năm đã trở thành một thước đo chuẩn mực về tiêu chuẩn cái đẹp lí tưởng, và cũng do đó, người đẹp Diễm My vẫn được phong danh hiệu Ảnh Hậu Nhân Dân (Hoa hậu chụp ảnh đẹp do …nhân dân bình chọn) giữ ngôi lâu bền nhất. Đến nay, tuy đã vào độ tuổi trung niên, Diễm My vẫn gìn giữ được vẻ đẹp vừa đài các, vừa thanh tân tươi tắn của hơn hai mươi năm về trước. Nói một cách khác, nhan sắc của “ảnh hậu miền Nam” Diễm My quả là hậu duệ xứng đáng của hương bóng tên tuổi Cô Ba hãng xà bông Trương Văn Bền ngày xưa.

Cũng từ cột mốc sắc đẹp và sự nổi tiếng của Diễm My, nghề người mẫu thời trang, các cuộc thi hoa hậu, hoa khôi cũng khởi sự rầm rộ tổ chức. Nối chân người đẹp Diễm My trải dài cho đến tận nay là muôn vàn những tên tuổi người đẹp mới xuất hiện: Kiều Khanh, Lý Mỹ Dung, Việt Trinh, Lý Thu Thảo,…

Đến những năm gần đây, người đẹp xuất hiện càng đông, đáng tiếc là không ít trong số này do trời phú chút dung nhan nhưng vụng đường giáo dưỡng mà nhẹ dạ gây không ít chuyện tai tiếng ê chệ, tiếng gọi “người đẹp” ngày nay cũng nhuốm ít nhiều ý mỉa mai chế giễu. Thêm phần, hầu như tiêu chuẩn “danh hiệu” đã trở thành điều tất yếu để công nhận người đẹp, nên mới có lắm cuộc vui gọi là thi xem ai đẹp nhất, mà nhiều người muốn đẹp nhất quá nên mới phải có càng nhiều cuộc thi, người đạt vương miện không gây nức lòng ngưỡng mộ, thậm chí không ít chuyện tiếu lâm về hoa khôi, hoa hậu ứng xử ngô nghê, nhân cách mù mờ, sinh ra lòng ngờ vực trong công chúng. Phàm đã quý phải hiếm, thứ chi nhiều nhan nhản cũng không thể trách lòng người hồ nghi. Hoa quý cũng chỉ một đóa trên cành, có đâu cả vườn hoa nhạt trồng vụng nở vội, hữu sắc mà hiếm hương, may chăng dùng làm phông nền chụp hình ngoại cảnh cho vui mắt thì được.

Diễm My
Diễm My

Sài-gòn như một người đẹp đeo quá nhiều nữ trang nên riết rồi công chúng không biết nên nhìn vào món nào mà trầm trồ ngưỡng mộ. Và rồi, thặng dư người đẹp mà đâm chóng chán, như thể mấy món đồ mỹ kí chóng bay màu nên thay đổi xoành xoạch, có đẹp, có long lanh, nhưng không phải hàng giá trị của món gia bảo quý giá, không chỉ vì kiểu cọ rồng phượng cầu kì hay cao giá bạc vạn, mà còn là bởi cái hồn ẩn chứa đằng sau, bởi cả cái độ bền bỉ của nước ngọc cùng tuế nguyệt thời gian, là nét trổ công phu tinh xảo, và đẹp chăng, giá trị chăng, ấy cũng là ở lòng người lấy làm quý, làm yêu mà giữ gìn nâng niu.

Hoa hậu hay hoa khôi, trộm nghĩ, thật chân ra, chỉ hậu duệ mới có quyền phán xét liệu chăng nét duyên có phải tận chân một chữ Mỹ mà tăng thêm giá trị về sau. Chứ là kẻ cùng thời, nhìn cũng chỉ biết đẹp, sao đoán được liệu sắc có còn đậm, hương có còn nồng ? Cũng một bề nhan sắc, thử hỏi có bao nhiêu tấm hồng nhan trở thành huyền thoại? Có chăng lúc này, cũng đáng cho kẻ đem lòng si mê cái sự đẹp nghiêng mình ghi tạ chút sắc hương những cánh hoa đời.

TRÁC THÚY MIÊU
ảnh [sưu tầm].

“Nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung và vụ tạt axit nổi tiếng nhất Sài Gòn

Cách đây đúng nửa thế kỷ, vào giữa năm 1963, tại Sài Gòn đã xảy ra một vụ đánh ghen được coi là rùng rợn nhất thành phố này. Đây cũng là lần đầu tiên ”Hoạn Thư” ở Sài Gòn biết sử dụng axít đậm đặc để thanh toán tình địch.

"Nữ hoàng vũ trường" Cẩm Nhung sau khi bị tạt axit được đăng trên một tờ báo của Sài Gòn trước 1975
“Nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung sau khi bị tạt axit được đăng trên một tờ báo

Nạn nhân là cô vũ nữ nổi tiếng nhất Sài Gòn lúc ấy tên là Cẩm Nhung, người được mệnh danh là “nữ hoàng vũ trường”. Người thủ ác là một mệnh phụ phu nhân, vợ của một trung tá Sài Gòn. Vụ tạt axit rùng rợn này đã biến cô vũ nữ giàu có, đẹp lộng lẫy thành cô gái mù lòa xấu xí, phải đi ăn mày. Khi còn là vũ nữ, Cẩm Nhung nổi tiếng nhất Sài Gòn, lúc đi ăn mày cô càng “nổi tiếng” hơn, khi luôn đeo trước ngực bức ảnh mình chụp với người tình trung tá thời trên đỉnh cao danh vọng.

Bà lão mù lòa từng là vũ nữ

Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo. Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa… Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung lừng danh của nửa thế kỷ trước.

Trước ngày 30/4/1975, người ăn mày mù lòa Cẩm Nhung với cây gậy dò đường và tấm ảnh chụp chung với người tình treo trước ngực, lê bước khắp nẻo Sài Gòn để xin lòng thương hại của mọi người. Về sau do bị săn đuổi, bà xuống ăn xin ở bến phà Mỹ Thuận trên đường về miền Tây. Sau năm 1975, người ta còn thấy bà ngồi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận một thời gian. Từ khoảng năm 1978, không ai thấy người ăn mày đeo tấm ảnh trước ngực đâu nữa.

Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo. Người ta nhận ra bà bởi khuôn mặt gớm ghiếc và đôi mắt mù lòa, hậu quả của vụ tạt axít năm xưa. Và nay, người ăn mày đặc biệt đã vĩnh viễn từ giả cõi trần, chính thức khép lại một kiếp hồng nhan đa truân, sau đúng nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn năm nào.

Nữ hoàng vũ trường

Vũ nữ Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cô phải rời xa Hà Nội để theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống chưa ổn định, cha của Cẩm Nhung lâm bệnh rồi mất, bỏ lại 3 người phụ nữ: mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng, chuyên bưng bê món ăn cho khách. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.

Vũ trường tại Sài Gòn trước 1975
Vũ trường tại Sài Gòn trước 1975

Cẩm Nhung có khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng đặc thù của con gái xứ Bắc. Tạo hóa ban thêm cho cô đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ. Đặc biệt đôi chân điệu nghệ của cô trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn đã làm bao khách làng chơi phải ngẩn ngơ. Lúc ấy Sài Gòn có hàng trăm vũ trường, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà Cẩm  Nhung càng có giá, được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Cô được dân chơi Sài Gòn phong là “Nữ hoàng vũ trường”.

Dù chỉ mới 23 tuổi và mới vài ba năm Cẩm Nhung làm vũ nữ, nhưng đã có không biết bao nhiêu tướng tá, đại gia đất Sài thành từng đắm đuối, say mê, săn đuổi, lấy lòng người đẹp.  Cùng với số tiền cát-sê cao ngất hàng đêm, cô gái trẻ đã sớm tạo dựng cho riêng mình cơ ngơi vững vàng. Cô có nhà ở trung tâm Sài Gòn, sống cùng mẹ và bà vú Sọ.

Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Trần Hưng Đạo. Tại đây, cô đã trở thành người tình của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Cô vũ nữ 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường đã bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Sự già dặn, từng trải, tiêu tiền như nước của gã, cùng với cái lon trung tá rất oai thời ấy đã làm cô vũ nữ sành điệu chấp nhận sa vòng tay bảo bọc của ông ta.

Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ, chủ yếu là vũ khí và đô-la để xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh.  Đó là cơ hội vàng để “Thức công binh” tham nhũng, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái.

Vợ trung tá Trần Ngọc Thức tên thật là Lâm Thị Nguyệt, có biệt danh là Năm Rađô – một biệt danh giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Rado của Thụy Sỹ mới nhập cảng vào Sài Gòn. Bà Năm Rađô không lạ gì thói trăng hoa của chồng, nhưng lần này biết chồng say mê cô vũ nữ trẻ đẹp quên cả gia đình, bà như phát điên vì ghen. Bà đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà.

Vụ đánh ghen ghê rợn

Theo thú nhận của Cẩm Nhung với báo chí Sài Gòn sau khi xảy ra vụ đánh ghen ghê rợn, khi làm người tình của trung tá Thức, cô nghĩ rằng mình có thể trở thành vợ bé của ông ta, một việc khá bình thường trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô đâu biết rằng, trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn, thì ở khu gia binh Cô Bắc cách đó không xa có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn.

Bà Năm Rađô đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà Năm Rađô tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà, Thức công binh sẽ trở về với vợ con.

Buổi chiều ngày 17.7.1963, trước khi vụ tạt axít xảy ra, bà vú Sọ của vũ nữ Cẩm Nhung vào phòng riêng báo cho cô biết, có một phụ nữ lạ mặt xuất hiện trước cổng nhà đòi gặp với giọng điệu rất hách dịch. Cẩm Nhung ra cửa, nhưng nại lý do người ở cầm chìa khóa đi chợ chưa về nên không mở được cửa. Người đàn bà lạ mặt là “Năm Ra-đô” không nhịn được, đã lên tiếng chửi bới tục tĩu, hăm dọa sặc mùi đao búa giang hồ rồi hậm hực bỏ ra về. Vũ nữ Cẩm Nhung không phải lần đầu tiên gặp cảnh ngộ này nên cô rất chủ quan và đinh ninh rằng cũng như bao nhiêu lần khác, mọi chuyện rồi sẽ qua.

Khoảng 22 giờ đêm, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Hàng ngày cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước, để cô đến vũ trường trước 23 giờ, nhảy nhót quay cuồng cho đến 3 – 4 giờ sáng. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10 mét, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô. Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.

Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến Bệnh viện Đô Thành (Bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do Bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay).

Những người bạn vũ nữ của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy thế lực của “Thức công binh” và bà Năm Rađô rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Bà cố vấn vốn tính bốc đồng đã làm lớn vụ việc, làm cho cả Sài Gòn như sôi lên vì vụ đánh ghen này.

Mỗi ngày, luôn có hàng trăm người thân, bạn bè, những người hiếu kỳ tới thăm Cẩm Nhung. Có một người khách thăm đã kề tai Cẩm Nhung nói rất nhỏ, nói vừa đủ cho cô nghe: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu cô làm lớn chuyện, “bả” sẽ giết chết cô. Trong những ngày ấy, bà vú Sọ là người suốt ngày đêm trực bên giường Cẩm Nhung. Tình cờ, bà vú Sọ phát hiện có kẻ lạ mặt rình rập cô Cẩm Nhung.

Để kiểm chứng bà giả vờ đi ra khỏi phòng bệnh để mua đồ, nhưng kỳ thực, bà nép mình ở góc hành lang để theo dõi. Kẻ lạ dã nhanh như sóc lách mình vào buồng bệnh nhân. Bà vú Sọ hốt hoảng chạy ngay trở lại phòng bệnh, vừa lúc bà thấy kẻ lạ giở tấm drap trắng đắp lên người Cẩm Nhung. Thấy bà trở vào phòng, kẻ lạ lúng túng nói là người quen tới thăm nạn nhân, sau đó lặng lẽ biến mất. Bà vú Sọ đã báo lên bệnh viện và thông báo với nhà chức trách.

Bà Trần Lệ Xuân nghe chuyện, đã chỉ đạo bệnh viện đưa Cẩm Nhung vào khu chăm sóc đặc biệt, không ai được vào thăm khi chưa có ý kiến của lãnh đạo bệnh viện. Mọi cuộc thăm viếng Cẩm Nhung sau đó đều có sự giám sát chặt chẽ của cảnh sát.

Sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng axít đến nỗi mù lòa, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, ở Sài Gòn bỗng nổi lên phong trào đánh ghen bằng axít. Suốt thời gian dài sau đó, người ta hay dọa những kẻ “giật chồng người khác” câu “muốn 1 ca axít lắm hả?”.

Trên thực tế, sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị nạn, chỉ trong năm 1964 đã có hàng chục ca thanh toán nhau bằng axít được đưa đến các bệnh viện Sài Gòn, hầu hết là do đánh ghen. Dù vậy, các thế hệ sau đều thua cú ra tay dữ dội của bà Năm Rađô. Vụ tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung mở màn cho “phong trào” đánh ghen bằng axít ở Sài Gòn, cũng là vụ đánh ghen tàn bạo nhất được ghi nhận ở đất Sài thành cho đến ngày nay.

Khi bà Trần Lệ Xuân vào cuộc

Bà Trần Lệ Xuân trả lời phỏng vấn
Bà Trần Lệ Xuân trả lời phỏng vấn

Khi vụ tạt axít xảy ra, bà Trần Lệ Xuân đang ở nước ngoài, nhưng cũng biết được vụ việc qua báo chí. Một tuần lễ sau bà về tới Sài Gòn, việc đầu tiên là bà chỉ đạo Nha An ninh phải vào cuộc, xử thật nặng những kẻ gây ra tội ác.

Đích thân Trần Lệ Xuân cũng tới thăm Cẩm Nhung, rồi thu xếp đưa cô đi nước ngoài chữa trị, nhưng tất cả đều vô ích, không gì có thể cứu vớt cuộc đời cô vũ nữ.

Không chỉ ra lệnh bắt xử những kẻ tạt axít, bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động tất cả các vũ trường, vì theo bà đó là nguồn gốc của ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác.

Bà ra lệnh cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải kỷ luật, hạ cấp hoặc loại khỏi quân đội. Sài Gòn vốn sôi động về đêm, những ngày sau đó trở nên đìu hiu khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn.

Các tướng tá Sài Gòn thì khỏi phải nói, chạy lo đủ kiểu để không bị phát hiện là có vợ nhỏ. Sau giờ làm việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ thì sự nghiệp nhà binh coi như đổ sông đổ biển.

Con đường công danh, sự nghiệp của Thức “công binh” cũng bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng, ông bị buộc phải giải ngũ, trở về làm dân. Một phiên tòa xét xử vụ tạt axít đã được gấp rút mở sau đó gần 3 tháng. Bà Năm Ra đô và tên du đãng tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, một tên đồng bọn khác bị phạt 15 năm tù. Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị kháng cáo, thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ với cái chết của 2 anh em nhà họ Ngô, bà Lệ Xuân phải sống lưu vong.

Chính trường Sài Gòn sau cái chết của anh em nhà họ Ngô đã rối ren suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung. Không thấy nền “đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu đưa ra xét xử. Sau đó vợ chồng Thức “công binh” đã chia tay nhau, người chồng về quê sống ẩn dật, còn bà Năm Ra đô thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.

Lại nói về Cẩm Nhung, ca axít đậm đặc đã phá hủy toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay, chỉ có thể cứu được mạng sống của Cẩm Nhung, còn đôi mắt, khuôn mặt thì không thể cứu chữa.

Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật. Sau đó, vợ chồng bà Trần Lệ Xuân đã chỉ đạo cho Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản thu xếp đón Cẩm Nhung qua Nhật Bản chữa trị thương tật.

Một ngày cuối tháng 9.1963, Cẩm Nhung được đưa lên máy bay sang Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bản cũng phải chịu thua, không thể phục hồi dung nhan và đôi mắt cô vũ nữ. Hai tháng sau, Cẩm Nhung trở về nước, lúc Sài Gòn đã đổi chủ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bảo bọc trọn đời” cho Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong ở nước ngoài.

Trả thù đời

Từ đỉnh cao danh vọng bỗng chốc rơi xuống tận cùng địa ngục, Cẩm Nhung trong đau khổ tuyệt vọng, đã lao vào đập phá, uống rượu, hút thuốc… Để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng của bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì. Thế nhưng, với khuôn mặt cháy xám, thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, không có người đàn ông tỉnh táo nào đủ can đảm làm tình nhân của cô.

Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè. Mẹ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964.

Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời, tài sản sau mấy năm kiếm được trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan, giờ cô tha hồ đập phá. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng… Cuối cùng, Cẩm Nhung bán nốt căn nhà với giá gần 200 lượng vàng để có tiền tiêu xài, cô và bà vú Sọ phải thuê nhà ở trọ.

Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần, ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời. Còn lại một mình không nơi nương tựa, không nghề nghiệp, đôi mắt mù lòa, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn biết đi ăn mày.

Ban đầu, Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào dịp tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, tay chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường. Ban đầu người ta kéo tới xem Cẩm Nhung rất đông, cho tiền cô cũng nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập, đập phá.

Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ, càng ít cho tiền. Không thể ngồi xin một chỗ, Cẩm Nhung cầm gậy dò đường đi xin dọc theo đại lộ Lê Lợi, đường Tự Do, những lối đi một thời in dấu chân cô từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực trung tâm Sài Gòn, đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng, trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.

Ngày ấy, khi đã mù lòa, xấu xí, phải ra đường ăn xin kiếm sống, Cẩm Nhung nhờ người quen phóng to tấm ảnh cô chụp với người tình trung tá công binh Trần Ngọc Thức để đeo trước ngực, vừa để thiên hạ xót thương mà bố thí, vừa để “trả thù đời” đối với kẻ đã tệ bạc bỏ mặc cô đau đớn, bệnh tật, nghèo khó mà không một lời hỏi han, thăm viếng. Ban đầu, sau khi Cẩm Nhung mang tấm ảnh mình và tay trung tá rất đẹp đôi trước ngực, mấy ngày sau có người lạ tới năn nỉ cô đừng trương tấm hình ấy ra nữa, bù lại họ cho cô số tiền kha khá.

Cẩm Nhung không chịu, họ cũng giật đại tấm ảnh, xong để lại trong ca ăn xin của cô một số tiền. Không chịu thua, Cẩm Nhung lại nhờ người thân phóng tấm ảnh khác để đeo, và lại bị họ giật. Sau đó, không chỉ bị giật hình ảnh, mà cô còn bị đánh đập gây thương tích, chỉ vì chuyện ôm tấm hình chụp chung với người tình cũ đi ăn xin khắp Sài Gòn.

Không sống được ở Sài Gòn, Cẩm Nhung âm thầm tìm ra bến xe Miền Tây để lên xe đò về bến phà Mỹ Thuận kiếm sống, vẫn với cái cách ngồi bên lề đường ăn xin, ngực treo tấm ảnh năm nào.

Tại đây, cô cũng bị người lạ giật tấm ảnh. Không chỉ vậy, ai đó đã nhân lúc cô đi ăn xin đã lẻn vào chỗ ở trọ, lục tung đồ đạc của cô, lấy đi tất cả hình ảnh cô chụp chung với người tình trung tá công binh. Kể từ đó, Cẩm Nhung không còn ảnh chụp chung với Thức công binh, cô lấy tấm ảnh chân dung của riêng mình treo trước ngực để đi ăn xin, người đi đường cảm thương phận bạc của cô vũ nữ mà bố thí cho ít tiền giúp cô sống qua ngày trong mù lòa, cô độc.

Sau ngày miền Nam giải phóng, Cẩm Nhung tiếp tục ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận. Nhưng sau đó chính quyền cách mạng dẹp nạn ăn xin để ổn định trật tự xã hội, Cẩm Nhung được đưa vào trung tâm nuôi người tàn tật. Không chịu được cuộc sống gò bó trong trung tâm, người phụ nữ mù đã lén bỏ trốn về Sài Gòn tiếp tục ăn xin.

Rồi cô lại bị “thu gom”, rồi lại trốn về tận Hà Tiên. Tại đây, Cẩm Nhung lúc thì đi ăn xin quanh quẩn các ngôi chùa, khi địa phương có chiến dịch “thu gom” người ăn xin, cô xin tá túc nhà chùa để được chén cơm, manh áo, vừa quét dọn sân chùa để khuây khỏa nỗi buồn trong cuộc đời bạc bẽo hơn vôi của cô. Kể từ đó, dù tá túc trong nhà chùa hay ăn xin đó đây, Cẩm Nhung không còn đeo tấm hình “nữ hoàng vũ trường” của mình trước ngực nữa.

Trong những năm tháng Cẩm Nhung sau khi bị nạn lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn, cũng là lúc ở Sài Gòn xuất hiện bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ”. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:

Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em
Loài người vô tình giết chết đời em…

Theo báo Lao Động

Nguyễn Thành Niệm: Từ thợ sửa xe trở thành chủ rạp hát

Ngày nay, khi đi ngang qua đường Trần Hưng Đạo, Q.1, TP. Hồ Chí Minh, người ta dễ dàng nhìn thấy một rạp hát bề thế, mang tên Hưng Đạo, nhưng có lẽ ít người biết rõ quá trình hình thành của nó.

Rạp Hưng Đạo
Rạp Hưng Đạo

Vào khoảng thời gian bắt đầu nổ ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Sài Gòn vẫn còn khá lạc hậu, với phương tiện giao thông cá nhân chủ yếu là xe đạp. Tại góc giao thông lộ Générsle Marchand và Galliéni (Nguyễn Cư Trinh và Trần Hưng Đạo ngày nay) thường ngày vẫn có một cậu con trai khoảng 18 – 20 tuổi ngồi cặm cụi sửa vá xe đạp bên vệ đường. Thời đó người dân chính gốc thành phố còn thất nghiệp dài dài, nói chi đến những dân nhập cư từ tỉnh thành xa, do đó người ta xem việc một thanh niên sửa xe như vậy là chuyện bình thường.

Những người lui tới con đường đó, đặc biệt là những khách hàng từng đôi ba lần xe đến sửa xe ấy là một chàng trai hiền hậu, dễ thương, lại chăm chỉ, cẩn thận. Xe hư đâu sửa đó, đảm bảo chất lượng, tiền công vừa phải, đôi khi với những khách hàng già cậu ta còn tự nguyện sửa miễn phí “để làm quen”. Lâu dần, khách hàng càng lúc càng đông, thậm chí có người bị hư xe ở xa cũng ráng dẫn bộ tới, để cậu sửa. Chàng trai ấy tên là Niệm.

Một năm sau ngày ra nghề, người ta thấy chỗ bức tường phía sau lưng anh thợ sửa xe ngồi, có treo lủng lẳng vài chiếc vỏ, ruột xe đạp, cùng với một ít những phụ tùng khác. Anh giải thích “Để khi nào khách có cần thì mình thay cho tiện”. Thời đó không có chợ phụ tùng hoặc các loại phụ tùng xe được bày bán khắp nơi như ngày nay, cho nên việc phục vụ linh hoạt của cậu Niệm được bà con ủng hộ. Hai năm sau, khách hàng nhìn thấy có thêm một hai chiếc xe đạp lắp ráp hoàn chỉnh dựng ở đó. Cậu Niệm lại giới thiệu “Nhân tiện ráp sẵn, nếu bà con nào có cần thì mình nhường lại, giá phải chăng”. Tất nhiên, bởi sẵn có uy tín hàng của cậu ta ráp đến đâu bán được đến đó.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong lúc Sài Gòn đang hoảng loạn vì những cuộc dội bom của phi cơ đồng minh xuống thành phố, dân chúng lo chạy tránh bom, thì góc đường đó, chàng trai sửa xe vẫn cứ bám trụ với “cơ ngơi của mình, gồm 4 chiếc xe đạp vừa mới ráp, cộng với một thùng phụ tùng mới. Với cậu giữa cái chết do bom đạm và chết đói, cậu ta sợ chết đói hơn, vả lại trong đầu cậu trai nghèo này, chừng như còn nuôi một hoài bão…

Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, cũng là lúc người ta ngạc nhiên khi thấy chàng trai đó đứng ra thuê hẳn một góc nhà (chỗ căn phố mà suốt mấy năm qua cậu ta vẫn ngồi phía trước hiên nhà để hành nghề) và khai trương bảng hiệu: “Nguyễn Thành Niệm, sửa xe và bán phụ tùng xe đạp”. Thì ra, do khéo dành dụm trong nhiều năm qua, đến lúc đó cậu ta đã có được số vốn nho nhỏ, đủ để “dựng tiệm”. Cậu tâm sự với những người quen biết “Cái nghèo nó làm cho mình phải bỏ dở chuyện học hành, mà không học thì khó bề lập thân. Bây giờ chỉ có một cách là phải chí thú làm ăn phải đi lên con đường thương mại….”. 5 năm sau, đầu thập niên 50, cả một dãy phố từ đầu đường Nguyễn Cư Trinh chạy dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đến gần đường hẻm Nguyễn Văn Dụng, đã quy về một mối, do một người làm chủ: Nguyễn Thành Niệm!

Cậu ta trúng nghề phụ tùng xe đạp là chủ yếu, nhưng cũng phải kể đến yếu tố cần kiệm và óc nhạy bén với thị trường. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một chàng sửa xe đạp tầm thường, Nguyễn Thành Niệm tậu được đến gần 30 căn phố mặt tiền đường Galliéni (Trần Hưng Đaọ). Có người nói, sở dĩ Nguyễn Thành Niệm mua được nhiều nhà như thế là bởi vì thời đó mọi người vừa trải qua một giai đoạn khủng hoảng do cuộc chiến tranh, bị lung lạc tinh thần, muốn bán rẻ nhà cửa để hồi hương lập nghiệp, nên giá nhà rẻ, và Niệm đã chộp đúng thời cơ.

Con đường “lập thân” của Nguyễn Thành Niệm đã mở rộng. Anh ta chuyển sang kinh đoanh đa dạng hơn, gồm cả phụ tùng xe gắn máy, xe hơi, máy móc cơ giới nói chung. Và thế là một công ty nhập khẩu phụ tùng xe, máy được hình thành. Công ty Indo – Comptoir của Nguyễn Thành Niệm cuối thập niên 50 là một trong 10 công ty xuất nhập khẩu phụ tùng xe cơ giới lớn nhất Sài Gòn có chi nhánh ở khắp miền Nam, vươn tới Nam Vang, Vientian, Pakse (Lào). Nguyễn Thành Niệm trở thành một tỷ phú.

Đầu thập niên 60, tại dãy phố góc đường Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, cạnh trụ sở của công ty Nguyễn Thành Niệm, người ta thấy mọc lên một toà nhà đồ sộ với chữ hiệu trên mặt tiền rất nổi: Rạp hát Hưng Đạo. Thì ra, đúng nơi mấy chục năm trước Niệm ngồi sửa se đạp, giờ đã được dựng lên một rạp hát lớn nhất thành phố, lại do chính ông làm chủ. Có lần Nguyễn Thành Niệm đã nói với bạn bè “Cuộc đời cũng giống như một sân khấu, mình cố làm sao cho sân khấu lộng lẫy thì càng hay…”

Thượng Hồng

Hý trường Đại Thế Giới

Đại Thế Giới, tên Tây là Casino Grande Monde, một trong những sòng bạc lớn nhất Đông Dương trong thế kỷ 20 do người Pháp lập ra vào năm 1937. Mãi đến năm 1955 mới bị đóng cửa dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Trước khi Đại Thế Giới xuất hiện, người Tầu thao túng việc bài bạc tại khu vực Chợ Lớn. Để giành lại mối lợi này, chính quyền Pháp tại Nam Kỳ đứng ra bảo trợ và thành lập sòng bạc Đại Thế Giới nhằm thu hút các con bạc khắp khu vực Saigon-Cholon. Hàng năm chính quyền bảo hộ thu được nguồn thuế rất lớn từ sòng bạc này. Ngoài bài bạc, Đại Thế Giới còn là tụ điểm ăn chơi, hút sách, trai gái nổi tiếng khắp cả nước thời Pháp thuộc.

Đại Thế Giới được người Pháp chính thức cho thành lập với các lý do: thà cho cờ bạc công khai, có lấy thuế, còn hơn để kiểu cờ bạc lén lút nhưng tràn lan vừa thất thu thuế, vừa xúc phạm đến quyền lực của chính phủ bảo hộ Pháp. Đồng lúc thành lập Đại Thế Giới còn có sòng bạc Kim Chung ở khu vực Cầu Muối (nay là Khu Dân Sinh, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1). Kim Chung có qui mô kém hơn, đối tượng chơi thuộc loại bình dân, nên mỗi khi nhắc tới casino tiêu biểu của Saigon, người ta hay nói đến Đại Thế Giới.

Đại Thế Giới ngày xưa nằm trên đường Gallieni (nay là Trần Hưng Đạo B) chiếm một khuôn viên rộng lớn của Trung tâm Văn hóa ngày nay. Khu đất rộng mênh mông, vòng rào xây tường cao, cửa ra vào có bảo vệ mặc đồng phục canh gác cẩn mật. Người ta ra vào tự do, nhưng không phải ai cũng mạnh dạn bước vào, bởi muốn bước vào phải có tiền và bởi cái ‘Sát Khí’ của Thần Đỏ Đen luôn vừa quyến rũ thiên hạ, lại vừa hù dọa mọi người.

Trên cổng lớn sáng rực ánh đèn néon, hàng chữ Grande Monde như một lời xác nhận với mọi người dân Sài Gòn thời đó rằng nơi đây là sòng bạc được nhà nước bảo trợ, cứ mặc tình mà sát phạt. Giấy phép hoạt động là của nhà nước bảo hộ cấp, nhưng sòng bạc lại do tư nhân điều hành.

Casino Grande Monde xưa trên đường Gallieni
(nay là Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn)

Ngay từ đầu khai trương, chủ thầu là một tay đầu nậu casino, Lâm Giống, từ Hồng Kông đến. Sở dĩ người Pháp cho các tay Hồng Kông trúng thầu vì họ hiểu rằng, chỉ những người từng am tường về tổ chức sòng bạc tầm cỡ thì mới có khả năng đưa Đại Thế Giới lên ngang tầm với các sòng bạc ở Á Châu.

Lâm Giống vốn xuất thân từ các sòng bạc ở Macau, đã sành sỏi về tổ chức casino, do đó ông ta đã rập khuôn từ mọi hình thức đến mọi mánh khóe. Cùng kéo sang ‘miền đất hứa’ Sài Gòn với chủ còn có những cô ‘hồ lì’, người đứng điều khiển cuộc chơi của từng môn đỏ đen, theo cách gọi của người Trung Hoa. ‘Hồ lì’ lúc nào cũng xinh đẹp và sành điệu, thừa sức làm vui lòng khách chơi, dù có bị thua cháy túi.

Ngay từ lúc mới mở cửa, Đại Thế Giới đã thu hút ngay số khách đỏ đen ở mức kỷ lục: những tuần lễ đầu có đến hàng ngàn người tới thử thời vận mỗi ngày, nhà chứa bạc thu vô không dưới một triệu đồng (một triệu đồng bạc Đông Dương hồi đó hết sức lớn, bằng bạc tỷ bây giờ). Tiền thuế nộp cho nhà nước cũng không ít, từ 200.000 sau lên 300.000 và có lúc lên đến 500.000 đồng một ngày. Thế mà chủ chứa vẫn hốt bạc nhiều hơn bất cứ ngành kinh doanh nào khác.

Khách chơi lúc đầu còn giới hạn trong giới trung lưu, đến người nhiều tiền, lần hồi thu hút tới những giới bình dân, cả phu kéo xe, phu bốc vác bến tàu, vì có đủ hình thức chơi, từ hốt me, tài xỉu, đến ru-lét… Người chơi không cần phải động não nhiều, và cũng không cần có nhiều vốn. Nhiều thua nhiều, ít thua ít, chỉ không đánh mới không thua! Vậy mà Đại Thế Giới như có bùa, như ma túy gây nghiện, nó có thứ ma lực lạ lùng càng lúc càng lôi cuốn người Sài Gòn như con thiêu thân trước ánh đèn.

Đã xảy ra nhiều cuộc chiến từ Đại thế giới. Cuộc chiến giữa khách chơi và nhà cái, cuộc chiến giữa bản thân người chơi và gia đình họ, và cuộc chiến cực kỳ quyết liệt giữa những thế lực để giành quyền chi phối sòng bạc.

Từ ngày Đại Thế Giới mở ra, đã có không biết bao nhiêu thảm cảnh gia đình. Có người là công chức cấp cao của nhà nước, giàu sang tột bực, vậy mà chỉ trong vài tuần ‘làm quen’ với Grande Monde đã nướng hết sản nghiệp vào đó, và tất nhiên là nướng cả cuộc đời. Có những người vợ, những cô này bà nọ, chỉ vì ham vui, vào thử vài lần rồi bắt bén vào tiếp và….. cuối cùng lột hết vòng vàng nữ trang, lấy cắp cả tiền nhà, cúng sạch, và sau đó cũng cúng luôn cả cái ngàn vàng của mình! Thời đó cầu Bình Lợi được xem là nơi kết liễu những cuộc đời bất hạnh, sau một đêm cháy túi ở Đại Thế Giới….

Cả Sài Gòn và vùng phụ cận, cả Nam Kỳ Lục tỉnh và cũng không thiếu người ở những miền xa của đất nước đổ xô về Đại thế Giới lập lòe ánh sáng ma quái, để chơi, để khóc và… để chết. Trong khi đó, một cuộc đổ xô khác, ở phía những thế lực muốn nắm Đại Thế Giới, cũng đến hồi quyết liệt.

Đại Thế Giới như rồng gặp mây khi Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều Nguyễn, được người Pháp giao lại nguồn lợi như một món quà ân thưởng. Phòng Nhì Pháp sau khi chiêu hồi Bảy Viễn (Lê Văn Viễn), thủ lĩnh Bình Xuyên, về thành đã gắn cho ông lon đại tá.

Cựu hoàng Bảo Đại
Cựu hoàng Bảo Đại

Theo hồ sơ về tỷ phú Hoa kiều Lý Long Thân do Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa lập, hiện lưu trữ tại Cục lưu trữ Việt Nam, thì để cầu thân với Bảy Viễn, Lý đã bỏ số tiền hơn 4 triệu franc để tổ chức tiệc chiêu đãi Bảy Viễn và đàn em tại hý trường Đại Thế Giới. Sau đó, Lý còn đề nghị Bảy Viễn đứng ra thầu lại sòng bạc Đại Thế Giới dưới sự hỗ trợ về tài chánh của chính mình (500 ngàn đồng Đông Dương một ngày) và sự bảo trợ của Quốc trưởng Bảo Đại.

Năm 1951, Bảo Đại đặt mua một chiếc Jaguar Mark II to đùng, phía trước mũi xe có gắn một con báo Nam Mỹ bằng đồng. Đây là chiếc ‘con báo’ duy nhất có mặt tại Việt Nam trong cùng thời điểm. Bảo Đại mua nó vì thích, sau đó dự định sẽ để dành làm quà sinh nhật cho hoàng tử Bảo Long. Nhưng cuối cùng lại nổi hứng, ông đã đem tặng nó cho viên tướng lục lâm Lê Văn Viễn, như quà mừng vì tay này đã thâu tóm được sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, hàng tháng đem lại cho Bảo Đại một số tiền cống nộp kếch xù.

Vào năm 1955, nhằm thống nhất các lực lượng Quốc gia, cắt đứt nguồn tài trợ của Bảy Viễn cũng như xóa bỏ lối sống đồi trụy tại đây, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh đóng cửa Đại Thế Giới. Đầu năm 1955 đánh dấu ngày tàn của Grande Monde, khi chính quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh dẹp sòng bạc lớn nhất Đông Nam Á. Phần đông người Sài Gòn thở phào nhẹ nhõm mỗi khi đi ngang qua nơi xưa kia vốn vừa là Thiên Đàng vừa là Địa Ngục. Tuy nhiên, các đệ tử của Thần Đổ Bác chắc hẳn… buồn năm phút!

Nguồn: blog Nguyễn Ngọc Chính

Trường trung học Nguyễn Bá Tòng

Một số hình ảnh của trường trong kỷ yếu 1973:

– Năm 1956: trường được thành lập mang tên vị Giám mục tiên khởi của Công Giáo Việt Nam có sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan  Caritas Germanica Đức Quốc, cơ quan NCWC, Công Giáo Hoa Kỳ. Trường toạ lạc tại số 73-75 đường Bùi Thị Xuân, quận 1 Sài Gòn. Trường có nhiều cấp lớp từ đệ thất đến đệ nhất đủ các môn A, B, A đặt dưới quyền đìều khiển của 8 vị linh mục cùng với sự giáo dục của 160 vị giáo sư, 30 nhân viên văn phòng ( ghi nhận vào năm 1963). Là một trường trung học tư thục nhưng trường được đánh gíá cao trong việc giáo dục, uy tín nhất thủ đô.

– Từ năm 1971: trường chỉ dành riêng cho học sinh nữ

– Từ năm 1975: trường trở thành trường trung học phổ thông công lập và trường được đổi tên thành trường THPT Bùi Thị Xuân, dành cho cả học sinh nam và nữ.

Mặt trước của trường Nguyễn Bá Tòng
Mặt trước của trường Nguyễn Bá Tòng
Tòa nhà chính
Ngôi nhà 3 tầng đầu tiên được xây cất vào năm 1955, dài 80m, rộng 10m, gồm 25 phòng học, 2 phòng Giáo sư, 1 thư viện và một số phòng nhỏ sử dụng cho Ban giám thị
Khu kỹ thuật
Hai tầng lầu trên cùng Học khu Kỹ thuật này sử dụng cho 3 phòng Gia chánh, 3 phòng Cắt may, 1 phòng kế toán (máy chữ), 1 phòng Giáo sư và 7 phòng học. Tầng dưới cùng gồm 3 lớp học, 1 văn phòng, 1 thư quán và 1 phòng liên lạc.
Khu nhà gạch
Ngôi nhà 4 tầng phía tay trái xây cất năm 1966, dài 50m, rộng 10m, gồm 25 phòng học
Ngôi nhà 4 tầng phía tay mặt xây cất vào năm 1968, dài 50m, rộng 10m, gồm 17 phòng học, một phòng thí nghiệm và một nguyện đường
Khu nhà cây
Ngôi nhà cây 2 tầng xây cất năm 1956, dài 50m, rộng 12m, gồm 9 phòng học và 1 phòng Giám thị.
Phòng gia chánh
Một phòng Gia chánh thuộc học khu Kỹ thuật Nguyễn Bá Tòng
Phòng kế toán
Một phòng Kế toán (Máy chữ) Nguyễn Bá Tòng
Phòng thí nghiệm
Phòng thí nghiệm Nguyễn Bá Tòng trị giá hơn 6 triệu đồng do cơ quan bác ái Đức Quốc viện trợ
Xếp hàng, trật tự và kỷ luật
Xếp hàng, trật tự và kỷ luật
Lớp tu nghiệp
Cộng tác với Ủy ban Giáo dục Địa phận Sài Gòn tổ chức lớp tu nghiệp Y học cho quý vị Giám thị của hơn 30 trường Trung, Tiểu học Giáo khu Sài Gòn từ 19-4-1972 đến 1-6-1972

Trích Kỷ yếu 1973 Nguyễn Bá Tòng

Địa danh Thủ Thiêm bắt nguồn từ đâu?

Thủ Thiêm xưa là khu vực phường Thủ Thiêm, quận 2 hiện nay. Địa hình vùng này trũng nên giao thông đường bộ không thuận lợi mà chỉ phát triển giao thông đường thủy. Vì thế từ lâu đã có câu hát:

Bắp non mà nướng nửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm

Địa hình trũng cũng là môi trường thuận lợi cho bàng, năn, lác … phát triển. Bàng là nguyên liệu quan trọng cho nghề đươn đệm, đặc biệt là đươn đệm buồn dùng cho ghe trên sông. Ở khu vực quận 1 nay, vào thời chúa Nguyễn có một xóm Đệm Buồm, vì thế mà có câu hát:

Ngõ lên trên chợ Thủ Thiêm
Thấy em đươn đệm giắt ghim trên đầu

Nhưng tại sao có tên Thủ Thiêm? Ở Nam Bộ có nhiều địa danh được cấu tạo theo công thức: thủ + tên người, như Thủ Thừa là ông thủ ngự tên Mai Tự Thừa (Long An), Thủ Đức là ông thủ ngự tên Đức. Thủ Thiêm là ông quan tên Thiêm làm chức thủ ngự.

Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của thì trại thủ là trại của làng lập ra để giữ trên bộ, còn phần thủ thì canh giữ đường sông. Vậy đây chính là phần thủ canh giữ đường sông Bến Nghé.

Trích Hỏi đáp về Sài Gòn – TPHCM – Tập 1