Category Archives: Đại phú gia

Nguyễn Thành Niệm: Từ thợ sửa xe trở thành chủ rạp hát

Ngày nay, khi đi ngang qua đường Trần Hưng Đạo, Q.1, TP. Hồ Chí Minh, người ta dễ dàng nhìn thấy một rạp hát bề thế, mang tên Hưng Đạo, nhưng có lẽ ít người biết rõ quá trình hình thành của nó.

Rạp Hưng Đạo
Rạp Hưng Đạo

Vào khoảng thời gian bắt đầu nổ ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Sài Gòn vẫn còn khá lạc hậu, với phương tiện giao thông cá nhân chủ yếu là xe đạp. Tại góc giao thông lộ Générsle Marchand và Galliéni (Nguyễn Cư Trinh và Trần Hưng Đạo ngày nay) thường ngày vẫn có một cậu con trai khoảng 18 – 20 tuổi ngồi cặm cụi sửa vá xe đạp bên vệ đường. Thời đó người dân chính gốc thành phố còn thất nghiệp dài dài, nói chi đến những dân nhập cư từ tỉnh thành xa, do đó người ta xem việc một thanh niên sửa xe như vậy là chuyện bình thường.

Những người lui tới con đường đó, đặc biệt là những khách hàng từng đôi ba lần xe đến sửa xe ấy là một chàng trai hiền hậu, dễ thương, lại chăm chỉ, cẩn thận. Xe hư đâu sửa đó, đảm bảo chất lượng, tiền công vừa phải, đôi khi với những khách hàng già cậu ta còn tự nguyện sửa miễn phí “để làm quen”. Lâu dần, khách hàng càng lúc càng đông, thậm chí có người bị hư xe ở xa cũng ráng dẫn bộ tới, để cậu sửa. Chàng trai ấy tên là Niệm.

Một năm sau ngày ra nghề, người ta thấy chỗ bức tường phía sau lưng anh thợ sửa xe ngồi, có treo lủng lẳng vài chiếc vỏ, ruột xe đạp, cùng với một ít những phụ tùng khác. Anh giải thích “Để khi nào khách có cần thì mình thay cho tiện”. Thời đó không có chợ phụ tùng hoặc các loại phụ tùng xe được bày bán khắp nơi như ngày nay, cho nên việc phục vụ linh hoạt của cậu Niệm được bà con ủng hộ. Hai năm sau, khách hàng nhìn thấy có thêm một hai chiếc xe đạp lắp ráp hoàn chỉnh dựng ở đó. Cậu Niệm lại giới thiệu “Nhân tiện ráp sẵn, nếu bà con nào có cần thì mình nhường lại, giá phải chăng”. Tất nhiên, bởi sẵn có uy tín hàng của cậu ta ráp đến đâu bán được đến đó.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong lúc Sài Gòn đang hoảng loạn vì những cuộc dội bom của phi cơ đồng minh xuống thành phố, dân chúng lo chạy tránh bom, thì góc đường đó, chàng trai sửa xe vẫn cứ bám trụ với “cơ ngơi của mình, gồm 4 chiếc xe đạp vừa mới ráp, cộng với một thùng phụ tùng mới. Với cậu giữa cái chết do bom đạm và chết đói, cậu ta sợ chết đói hơn, vả lại trong đầu cậu trai nghèo này, chừng như còn nuôi một hoài bão…

Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, cũng là lúc người ta ngạc nhiên khi thấy chàng trai đó đứng ra thuê hẳn một góc nhà (chỗ căn phố mà suốt mấy năm qua cậu ta vẫn ngồi phía trước hiên nhà để hành nghề) và khai trương bảng hiệu: “Nguyễn Thành Niệm, sửa xe và bán phụ tùng xe đạp”. Thì ra, do khéo dành dụm trong nhiều năm qua, đến lúc đó cậu ta đã có được số vốn nho nhỏ, đủ để “dựng tiệm”. Cậu tâm sự với những người quen biết “Cái nghèo nó làm cho mình phải bỏ dở chuyện học hành, mà không học thì khó bề lập thân. Bây giờ chỉ có một cách là phải chí thú làm ăn phải đi lên con đường thương mại….”. 5 năm sau, đầu thập niên 50, cả một dãy phố từ đầu đường Nguyễn Cư Trinh chạy dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đến gần đường hẻm Nguyễn Văn Dụng, đã quy về một mối, do một người làm chủ: Nguyễn Thành Niệm!

Cậu ta trúng nghề phụ tùng xe đạp là chủ yếu, nhưng cũng phải kể đến yếu tố cần kiệm và óc nhạy bén với thị trường. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một chàng sửa xe đạp tầm thường, Nguyễn Thành Niệm tậu được đến gần 30 căn phố mặt tiền đường Galliéni (Trần Hưng Đaọ). Có người nói, sở dĩ Nguyễn Thành Niệm mua được nhiều nhà như thế là bởi vì thời đó mọi người vừa trải qua một giai đoạn khủng hoảng do cuộc chiến tranh, bị lung lạc tinh thần, muốn bán rẻ nhà cửa để hồi hương lập nghiệp, nên giá nhà rẻ, và Niệm đã chộp đúng thời cơ.

Con đường “lập thân” của Nguyễn Thành Niệm đã mở rộng. Anh ta chuyển sang kinh đoanh đa dạng hơn, gồm cả phụ tùng xe gắn máy, xe hơi, máy móc cơ giới nói chung. Và thế là một công ty nhập khẩu phụ tùng xe, máy được hình thành. Công ty Indo – Comptoir của Nguyễn Thành Niệm cuối thập niên 50 là một trong 10 công ty xuất nhập khẩu phụ tùng xe cơ giới lớn nhất Sài Gòn có chi nhánh ở khắp miền Nam, vươn tới Nam Vang, Vientian, Pakse (Lào). Nguyễn Thành Niệm trở thành một tỷ phú.

Đầu thập niên 60, tại dãy phố góc đường Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, cạnh trụ sở của công ty Nguyễn Thành Niệm, người ta thấy mọc lên một toà nhà đồ sộ với chữ hiệu trên mặt tiền rất nổi: Rạp hát Hưng Đạo. Thì ra, đúng nơi mấy chục năm trước Niệm ngồi sửa se đạp, giờ đã được dựng lên một rạp hát lớn nhất thành phố, lại do chính ông làm chủ. Có lần Nguyễn Thành Niệm đã nói với bạn bè “Cuộc đời cũng giống như một sân khấu, mình cố làm sao cho sân khấu lộng lẫy thì càng hay…”

Thượng Hồng

“Nhất Sỹ” Lê Phát Đạt và gia tộc giàu hơn Bảo Đại

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Sài Gòn nổi lên tứ đại hào phú lẫy lừng: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”. Bốn đại gia này không chỉ giàu có nhất đất Sài Gòn mà còn là những người giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và xứ Đông Dương. Gắn liền với tên tuổi của bốn đại gia này là những giai thoại về sự giàu có đáng kinh ngạc…

Trong số đó, “Nhất Sỹ”  – Lê Phát Đạt, ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu là người giàu có bậc nhất, hiện vẫn được lưu danh cùng với công trình chứng minh cho khối tài sản khổng lồ của mình là nhà thờ Huyện Sỹ.

Huyện Sỹ có tên thật là Lê Phát Đạt. Ông sinh năm 1841 tại Cầu Kho, Sài Gòn. Tuy nhiên, quê quán ở Tân An, Long An trong một gia đình theo Công giáo. Thuở nhỏ, ông có tên là Sỹ và tên thánh là Philipphê.

Ông được các tu sỹ người Pháp đưa sang du học ở Pénang, Malaysia. Ở đây, ông Sỹ được học các ngôn ngữ: như tiếng La Tinh, tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Quốc ngữ.

Nhà thờ Huyện Sĩ
Nhà thờ Huyện Sĩ

Mặc dù đã đổi tên nhưng bà con lối xóm vẫn gọi ông bằng cái tên cúng cơm là Sỹ. Cũng bởi vậy, cái tên Huyện Sỹ Lê Phát Đạt đã gắn bó với số phận của ông. Mặc dù xuất thân trong một gia đình không quá giàu có nhưng đến đời của Lê Phát Đạt thì ông đã nhanh chóng trở thành người giàu có bậc nhất đất Sài Gòn.Do tên của ông trùng tên với một người thầy dạy nên người thầy đã đổi tên Sỹ đổi tên thành Lê Phát Đạt. Khi về nước, ông Lê Phát Đạt được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi từ năm 1880 thì làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.

Theo học giả Vương Hồng Sển trong cuốn sách “Sài Gòn năm xưa” thì việc phất lên nhanh chóng của ông Lê Phát Đạt có không ít yếu tố may mắn: “Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác. Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đầu giá”.

Học giả Vương Hồng Sến giải thích là: “Hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo Pháp.

Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui. Chừng đó ai về chỗ nấy, hấp tấp làm chi cho mang tội… Không dè bởi đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội đồng Thành phố, Ủy ban Điền thổ rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng.

Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những ủy viên bản xứ nhận là của mình: “Ùy” một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói “Nông” cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “Ùy”, “Nông” mà có ông Lê Phát Đạt lập nghiệp truyền tử lưu tôn.

Trận bão năm Giáp Thìn, tức năm 1904, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức, mà có ai thèm đâu…”.

Thế rồi, nài ép Lê Phát Đạt, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều. Nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu có nhanh chóng. Mặc dù giàu có như vậy, nhưng trong nhà ông Lê Phát Đạt có treo câu đối dạy đời: “Cần dữ kiệm, trị gia thượng sách/Nhẫn nhi hòa, xử thế lương đồ”.

Bên cạnh đó, cũng có những lời đồn rằng ngôi nhà lầu đồ sộ của Huyện Sỹ tại Tân An, nằm gần ngã ba sông Tân An và Bảo Định đã được cất trên thế đất hàm rồng nên gia đình ông trở nên giàu có, danh vọng bậc nhất thời đó.

Sự giàu có của ông Huyện Sỹ được mô tả rằng: khi đang xây nhà thờ Chợ Đũi, chính là nhà thờ Huyện Sỹ theo yêu cầu của giáo dân vùng Bảy Hiền, người ta đã cắt bớt một gian giữa của nhà thờ này để lấy tiền đó xây nhà thờ Chí Hòa.

Hay người con trai của Huyện Sỹ là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây, nằm ở góc Quang Trung – Lê Văn Thọ, Gò Vấp. Tất cả những ngôi nhà thờ này đều xây trên đất của Huyện Sỹ.

Ngày nay, nếu đi bằng xe máy từ nhà thờ Huyện Sỹ đến nhà thờ Hạnh Thông Tây phải mất gần một tiếng, đủ thấy vùng đất của Huyện Sỹ mênh mông chừng nào.

Không chỉ có thế, các con của Huyện Sỹ như bà Lê Thị Bính – mẹ của Nam Phương hoàng hậu, Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười.

Riêng trưởng nam của Huyện Sỹ là Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương. Ông Lê Phát An là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là “hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình.

Mức độ giàu có của gia đình Huyện Sỹ còn được đồn thổi là lớn hơn rất nhiều lần so với vua Bảo Đại. Vậy nên, mới có câu chuyện là vào năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu về Huế làm Hoàng hậu, Lê Phát An đã tặng cho Nguyễn Hữu Thị Lan một triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn.

Nếu quy đổi thì 1 triệu đồng lúc bấy giờ có giá vàng khoảng 50 đồng/lượng. Vậy nên món quà này tương đương 20.000 lượng vàng. Gia đình Nguyễn Hữu Hào, cha của Nam Phương hoàng hậu, rể của Huyện Sỹ cũng giàu có hơn Bảo Đại.

Trong đời làm vua của mình, vị hoàng đế thích ăn chơi Bảo Đại thường dùng tiền của vợ nhiều hơn của hoàng gia.

Sự giàu có của Huyện Sỹ Lê Phát Đạt cho đến nay vẫn còn lưu danh và đặc biệt là thể hiện một cách rõ nét qua các công trình xây dựng còn lại. Một trong số đó chính là nhà thờ Huyện Sỹ. Ngôi nhà thờ này đã được ông Huyện Sỹ hiến đất và xuất 1/7 gia tài để xây dựng.

Tính theo thời giá lúc bấy giờ là khoảng trên 30 ngàn đồng bạc Đông Dương. Nhà thờ được khởi công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của linh mục Bouttier.

Đến năm 1905 thì nhà thờ được khánh thành. Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một mẫu, nằm ở góc đường Frère Louis, nay là đường Nguyễn Trãi và Frère Guilleraut, nay là đường Tôn Thất Tùng.

Ban đầu nhà thờ có tên là Nhà thờ Chợ Đũi do thuộc họ đạo Chợ Đũi. Mặt khác, do Thánh Philípphê tông đồ là bổn mạng của Huyện Sỹ nên còn được gọi là Nhà thờ Thánh Philípphê. Tuy vậy, dân gian vẫn gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ.

Và sau đó dần trở thành tên chính thức của nhà thờ này. Nhà thờ Huyện Sỹ được đánh giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Phía trước nhà thờ có tượng đài thánh tử đạo Việt Nam là Mátthêu Lê Văn Gẫm.

Gần cổng chính còn có đài thiên thần hộ thủ và tượng đài Thánh Giuse. Bên trái khuôn viên là núi Đức Mẹ Lộ Đức, được xây dựng năm 1960 để kính Đức Mẹ Lộ Đức.

Hằng năm cứ vào ngày 11 tháng 2 dương lịch, các linh mục chính xứ Chợ Đũi có thói quen cử hành thánh lễ tại núi này để cầu nguyện đặc biệt cho các bệnh nhân. Phía bên phải khuôn viên nhà thờ là đồi Canvê, có tượng chuộc tội rất lớn được xây dựng năm 1974 dưới thời linh mục Gioan Baotixita Dương Hoàng Thanh.

Nhà thờ có chiều dài 40 m, chia làm 4 gian, rộng 18 m. Thiết kế ban đầu của nhà thờ Huyện Sỹ gồm 5 gian, tức khoảng 50 m. Nhưng thời gian đó, nhà thờ tạm Chí Hòa bị hư hại trầm trọng.

Vì vậy, giới chức trong họ đạo Chợ Đũi đã xin cắt bớt một gian, dùng số tiền đó để xây nhà thờ Chí Hòa. Nhà thờ Huyện Sỹ dùng đá Granite Biên Hòa để ốp mặt tiền và các cột chính điện, theo phong cách kiến trúc Gothic. Chính điện nhà thờ có vòm chịu lực dạng cung nhọn.

Tường có nhiều cửa sổ dạng vòm đỉnh nhọn và được trang trí bằng lớp kính màu ghép hình mua từ Ý. Bên trong các gian tường có nhiều tượng thánh. Trên vòm cửa chính có tượng thánh Philípphê bổn mạng nhà thờ bằng đá Cẩm Thạch, đứng cầm cây thánh giá Phục sinh.

Ngọn tháp chuông chính cao 57 m kể cả chiều cao thánh giá và con gà trống Gaulois. Bên trong tháp có bốn quả chuông được đặt đúc tại Pháp năm 1905.

Hai quả lớn có đường kính 1,05 m do con trai và con dâu Huyện Sỹ là ông Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và bà Anna Đỗ Thị Thao tặng. Hai quả chuông nhỏ đường kính 0,95 m không ghi tên người tặng, có lẽ là của ông bà Huyện Sỹ đặt đúc cùng năm.

Ông huyện Sỹ qua đời năm 1900 khi nhà thờ chưa xây dựng xong. Về sau khi vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, người ta mới đưa hai ông bà chôn ở gian chái sau cung thánh của nhà thờ này.

Tại gian chái bên trái là tượng bán thân ông Huyện Sỹ bằng thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá Cẩm Thạch được trang trí hoa văn.

Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá Cẩm Thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn đóng quay về cung thánh nhà thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày.

Đối diện bên phải là tượng vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài với tóc búi cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài.

Phía trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu ông bà là Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và Anna Đỗ Thị Thao. Cho đến nay, công trình này vẫn được xem là một điểm đến thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu về cuộc đời của đại gia giàu có bậc nhất đất Sài Gòn xưa.

Đinh Minh

Thông Hiệp Quách Đàm – Ông chủ chợ Bình Tây

Tượng Quách Đàm trước chợ Bình Tây
Tượng Quách Đàm trước chợ Bình Tây

Người già Sài Gòn có thể nghe và biết về Quách Đàm, còn lớp trẻ ngày nay chắc chắn sẽ hỏi: “Quách Đàm là ai?”. Để trả lời, xin nhắc tới một nơi chốn khá dễ thấy: ngôi chợ Bình Tây (Quận 6, TPHCM ngày nay)

Quách Đàm là người Hoa, di dân qua Việt Nam kể từ khi phong trào phản Thanh phục Minh nổi lên mạnh mẽ tại Trung Quốc. Tuy vẫn khoác bên ngoài bộ cánh của một người Hán theo nhà Thanh, nhưng thực ra, theo nhiều người biết chuyện, Quách Đàm ngầm ủng hộ cho nhóm phản Thanh phục Minh.

Trở lại xuất thân của con người được liệt vào danh sách nhà hào phú bậc nhất ở Sài Gòn – Chợ Lớn thời ấy, chúng ta được biết, thuở nhỏ Quách Đàm có cuộc sống cơ cực, nghèo khó. Cũng giống như chú Hỏa, khởi nghiệp Quách Đám lập nghiệp bằng đôi quang gánh (mua ve chai). Quách Đàm vốn mồ côi, không nhà không cửa, nên phải sống lang thang đầu đường xó chợ. Ngày đi mua ve chai, tối về ngủ ở mái hiên ở các ngôi phố ở Chợ Lớn cũ, nằm ở khu vực Bưu điện Chợ Lớn, đầu đường Châu Văn Liêm ngày nay. Tuy sống cảnh đời bấp bênh như vậy, nhưng chú Ba Đàm (người ta thường gọi ông như thế) vẫn nuôi chí làm giàu. Vài năm sau, người ta thấy Quách Đàm có một ít vốn. Vẫn chưa có nhà cửa, nhưng chú Đàm không vì vậy mà không bắt đầu con đường “doanh nghiệp” của mình, bằng cách dùng số vốn ít ỏi, mua đi bán lại các  mặt hàng hiếm và lạ, như da trâu, vi cá. Thời đó, những mặt hàng này chủ yếu là đem bán ở nước ngoài.

Công cuộc kinh doanh của Quách Đàm không phải là suôn sẻ ở buổi đầu, bởi ông còn phải ngủ đường ngủ chợ, cho nên thường bị bọn xấu rình đắp cắp vốn liếng giấu trong hầu bao. Mất tiền nhiều lượt, nhưng chú Đàm vẫn không nản, kiên trì làm lại từ đầu, chỉ vài năm sau nữa, Quách Đàm đã có được một số vốn kha khá. Chú mướn được một căn phố ở khu vực chợ Kim Biên ngày nay (thời đó toàn bộ khu vực này còn là một con rạch chảy ra kênh Tàu Hũ). Lợi dụng địa thể ngôi nhà ở ngay bờ kênh, Quách Đàm đã chuyển sang kinh doanh nông sản, thực phẩm, chủ yếu là thu mua lúa gạo ở các tỉnh miền Tây. Ban đầu buôn nhỏ, sau phát triển to dần, trở thành nhà thầu cung cấp gạo lớn nhất nhì Sài Gòn – Chợ Lớn. Hầu hết những “chành” gạo ở dọc theo vùng Bình Đông, bến Lê Quang Liêm ngày nay, có thời là của chú Đàm.

Trong kinh doanh, Quách Đàm rất khôn khéo. Ông vừa tránh đối đầu với thể lực người Pháp, nhưng lại không hề thua kém họ trên thương trường. Họ Quách lại nhanh nhạy, thông minh, nên chẳng mấy lúc, nhờ tài ngoại giao, ông đã được “nhà nước bảo hộ” dành cho đặc quyền rồi, thì phải đền đáp lại, chừng như đó là cách của người Hoa trên thương trường: đã không làm nghĩ cử đẹp thì thôi, còn làm thì phải làm cho xôm trò. Sự xôm trò đó là ngôi chợ Bình Tây. Nguyên vào thời đó (khoảng năm 1920), chính quyền thành phố Sài Gòn nhận thấy ngôi Chợ Lớn cũ nằm ở gần chân cầu Chà Và đã quá cũ và chật chội, nên có ý định tìm địa điểm để dời đi, mà tìm mãi vẫn chưa có nơi nào thích hợp. Biết được tin đó, Quách Đàm hứa tặng không một khu đất khá rộng nằm ở khu vực Bình Tây, lúc đó đang là đất trống, vốn là sở hữu của ông. Chẳng những tặng đất, Quách Đàm còn cam đoan sẽ xây tặng cho một ngôi chợ mới, bề thế với một “số ít” điều kiện kèm theo: cho ông được cất hai dãy phố cặp theo hai hông chợ và phải đặt ngay trước cửa chợ một bức tượng đồng đúc hình … Quách Đàm.

Điều kiện dễ dàng đó đã nhanh chóng được chính quyền chấp nhận. Chợ xây hơn hai năm thì xong. Khi khánh thành, chợ được đặt tên là chợ Bình Tây, nhưng người dân vẫn quen gọi là Chợ Lớn Mới.

Kể từ khi tặng ngôi chợ, công việc làm ăn của Quách Đàm càng thêm khấm khá. Tuy nhiên, trong kinh doanh, ông cũng dùng những mưu mô thường thấy ở những tay phú thương cỡ bự. Có chuyện kể rằng, khi thấy giá lúa gạo đang bị sụt và ứ đọng, họ Quách đã tung tiền thu mua hết số lúa gạo ứ đọng, đem về chứa trong kho, rồi nhờ một người quen ở Singapore đánh liên tiếp nhiều bức điện tín về Sài Gòn đặt hàng lúa gạo với giá cao không thể ngờ. Tin đó được truyền rao ra ngoài, lập tức nhiều người cùng đổ xô đi thu mua lúa gạo, dĩ nhiên là với giá cao chứ từng thấy. Cho đến khi họ vỡ lẽ ra, thì chỉ có nước ngậm đắng nuốt cay và chịu trận. Quách Đàm vớ bở cú đó. Ông ta mãn nguyện tâm sự với bạn bè: “Khi ra làm ăn, tôi đã nhờ thầy địa lý coi hướng xây nhà trên một long mạch, đồng thời đặt tên cho công ty của mình là THÔNG HIỆP, điều đó cho thấy tôi sẽ phất lên”. Giải nghĩa chữ THÔNG HIỆP như thế này: Thông thương sơn hải (bán buôn khắp chốn), Hiệp quán càn khôn (thu tóm cả đất trời).

Dù lời nói của Quách Đàm có tính khoa trương, nhưng thực tế phải nhìn nhận là ông đã làm được việc mà nhiều người không làm nổi: từ bạch đinh trở thành đại phú chỉ với sức lực, tài năng và ý chí của mình.

Thượng Hồng

* Trích “Giai thoại về các tỉ phú Sài Gòn xưa”