Category Archives: Đời sống

Chuyện kể về các thầy bói đất Sài Gòn xưa

Giai thoại kể lại, có quan chức chế độ Sài Gòn được thầy bói khuyên là nên luôn luôn thắt cà vạt màu xám có sọc màu hồng, và ông này đã âm thầm làm như vậy trong bao nhiêu năm trời. Vì sự mê tín của cả nhân dân và chính quyền, các vị thầy bói có ảnh hưởng rất lớn, nếu không nói là đã đóng những vai trò quan trọng trên chính trường.

Các thầy bói nổi danh ở Sài Gòn

Trong nghề bói toán ở Sài Gòn trước năm 1975, các thầy bói đều là những người làm ăn khá giả và rất có uy tín xã hội. Trong đó, số thầy bói từ miền Bắc di cư vào Nam chiếm một lượng lớn.

Có lẽ, thầy Khánh Sơn là người nổi tiếng nhất và lâu nhất ở Sài Gòn trước năm 1975. Từ những năm Pháp thuộc, thầy đã tự xưng là Maitre Khánh Sơn. Báo chí thời ấy đã đăng ảnh thầy đeo kính trắng trí thức, một ngón tay chỉ vào cái chìa khóa, tượng trưng cho sự khám phá mọi điều huyền bí (?!). Thầy hành nghề từ những năm 1940, sau khi tốt nghiệp bằng sư phạm tại Hà Nội, chứ không phải vì thất nghiệp mà phải xoay nghề như một số thầy ở bên Tàu sang Việt Nam.

Theo nhiều giai thoại, thầy Khánh Sơn là người hào hoa phong nhã, lại làm ra tiền nên dù vợ con đàng hoàng, thầy vẫn được các bà, các cô mê mệt. Viên toàn quyền Pháp Pasquier trấn nhậm Đông Dương vào năm 1936, được thầy Khánh Sơn đã đưa ra một “câu sấm” để giải đoán trường hợp ông ta:

Bao giờ hai bảy mười ba
Lửa thiêng đốt cháy tám gà trên mây

Theo một số người, thầy Khánh Sơn cho rằng “tám gà” là “bát kê” (phiên âm của tên vị toàn quyền); và “trên mây” là “máy bay”. Sau đó ít lâu, máy bay trên chở viên viên toàn quyền bay về Pháp bị bốc cháy. Không những ông ta mà cả tám người trên phi cơ đều tử nạn. Thời gian hành nghề của thầy Khánh Sơn kéo dài rất lâu. Thầy đã từng là nhà đoán vận mạng riêng của rất nhiều nhân vật tên tuổi như: cựu hoàng Bảo Đại, cựu quốc vương Sihanouk…

Thầy Minh Nguyệt, là một người miền Nam, tự quảng cáo trên báo là giáo sư Minh Nguyệt, và mở văn phòng ở đường Đề Thám. Cùng với các thầy Huỳnh Liên, Khánh Sơn, thầy Minh Nguyệt là một nhà bói toán có đến hàng chục ngàn thân chủ.

Văn phòng của thầy lúc nào cũng đầy nữ thân chủ, phần đông là các cô có chồng quân nhân Mỹ đã bỏ Việt Nam. Các cô tới để nhờ thầy đoán xem bao giờ gặp lại cố nhân để cho đời sống được lên hương như trong quá khứ. Hàng chục cô trong đó mong được nâng khăn sửa túi cho giáo sư Minh Nguyệt, nhưng thầy nghiêm lắm, chẳng bao giờ “trăng hoa”.

Thầy bói đang xem số mạng cho khách
Thầy Nguyễn Văn Canh sinh quán tại Nam Định. Thầy Canh mù lòa từ thuở sơ sinh, nên được gia đình cho học nghề bói toán để làm kế sinh nhai. Thuở đầu đời, thầy hành nghề tại Thái Bình, Hà Nội, rồi di cư vào Sài Gòn. Dù bị mù nhưng thầy Canh có đến mười người con, tất cả đều được sinh trưởng trong cảnh no ấm sung túc nhờ nghề của thầy, vốn là một nghề rất sáng giá vào thời ấy. Thầy sở trường về tử vi và bói dịch, nổi tiếng như một nhà tiên tri.

Dáng người bệ vệ cao lớn, thầy có sức khỏe dồi dào và thần trí minh mẫn. Xem tử vi trên năm đầu ngón tay, thầy Canh chỉ cần nghe ngày sinh tháng đẻ của thân nhân một lần là nói ngay vanh vách sao nào đóng ở cung nào, cung thê có đào hoa hồng loan thì sao, cung mệnh không có chính diệu mà đắc tam không thì cuộc đời sẽ như thế nào. Nói rồi, thầy nhớ mãi, lần sau khách tới chỉ cần nói tên là thầy biết số này ra sao!

Thầy Ba La cũng sinh quán ở ngoài Bắc, và di cư vào Sài Gòn. Trước năm 1975, thầy Ba La mở văn phòng bói toán, khách bước vào trông thấy ngay một cụ già tiên phong đạo cốt, râu tóc bạc phơ, chẳng khác gì các đạo sĩ trong truyện Tàu.

Thầy cũng mù lòa từ lúc trẻ nên đã chọn nghề này để sinh sống. Văn phòng thầy Ba La tiếp toàn là các vị trí thức, giáo sư, kỹ sư, luật sư… Có người không tới để nhờ thầy đoán vận mệnh, mà chỉ đến để xin được luận đàm về tử vi. Thầy Ba La không làm khó trong việc tiếp thân chủ, nhưng thầy hết sức thận trọng khi đặt một lá số, gieo một quẻ bói.

Chuyện kể rằng, có hai vợ chồng nọ cầu tự mãi mới có một đứa con trai. Năm lên ba tuổi, cậu bé bị bệnh mà mất. Hai vợ chồng lại tiếp tục “cầu tự” để xin được ‘trả lại’ đứa con trai. Ba năm sau, họ lại sinh được một bé trai. Đứa bé giống anh trai đã mất như đúc, kể cả nốt ruồi son giữa ngực. Vì vậy hai ông bà thân sinh lấy tên người anh đặt cho người em, cả giấy khai sinh đều giữ nguyên của người anh để đi học, dù họ cách nhau ba tuổi.

Cậu bé lớn lên, học hành đõ đạt và tìm đến thầy Ba La để nhờ giải đáp cuộc đời mình. Anh ta đưa thầy xem lá số tử vi của anh trai, thầy Ba La càng xem càng toát mồ hôi, miệng không ngớt thốt lên : ‘Lạ quá, lạ quá’. Sau cùng, thầy nói rằng :

– Nếu thật anh sinh vào ngày giờ này, tháng này, năm này, thì anh đã mệnh yểu từ năm lên ba !

Thầy Ba La xem lại thật kỹ, vì bị mù, nên thầy gọi người nhà ra nhận xét và trả lời từng điểm: có phải cái trán thế này, cái mũi thế này, cặp mắt thế này, tầm vóc cao lớn như thế này…không ? Và nhất là có nốt ruồi son ở giữa ngực? Thầy lập lại :

– Có nốt ruồi đỏ thật à ? Thế thì lạ quá ! Tôi chịu, không đủ tài đoán số này cho anh. Anh hãy cầm tiền về và chỉ đến khi nào anh… có được một lá số tử vi khác !

Thầy Ba La bực tức vì cảm thấy, lần đầu tiên, mình không tin ở khả năng của mình. Cũng bực tức nghi ngờ phần nào người thân chủ này đã có thể không thành thật. Anh thanh niên cảm phục đến sợ hãi, xin lỗi thầy và trình ra lá số tử vi với ngày tháng sinh thật.

Hầu hết những giai thoại trên đều không có sức thuyết phục, nhưng có một điều chắc chắn là nghề bói toán ở Sài Gòn trước năm 1975 rất thịnh hành. Thậm chí, các nhà cầm quyền thời điểm đó còn mời cả các thầy bói lên truyền hình để tiên đoán về vận mệnh chính trị quốc gia. Cuộc sống của các thầy bói này do đó cũng rất sung túc.

Những “bóng hồng” trong làng bói toán Sài Gòn

Tuy cũng thành công, nhưng so với quý ông thì số lượng các thầy bà thời ấy ít hơn nhiều. Thường thì, khách của các thầy bà là phụ nữ, nhưng đôi khi cũng còn là các thiếu gia lắm tiền nhưng mê tín.

Nghề bói toán dù hiện nay không được công nhận nhưng rất có sức hấp dẫn, đặc biêt đối với nữ giới
Bà Anna Phán đã nổi tiếng một thời từ Hà Nội. Khi bà theo làn sóng di cư vào Nam thì chỉ còn hành nghề được ít năm nữa. Cũng có người cho rằng là vì tuổi già sức yếu nên con cháu không muốn bà tiếp tục, dù rằng… lộc thánh hãy còn.

Trẻ hơn Bà Anna Phán, có một bà thầy gợi cảm mang cái tên rất đầm: Madame Claire. Madame Claire chẳng những bói hay mà còn là một người lịch lãm và gợi cảm. Có một công tử Bạc Liêu về già còn đem đến tặng Madame vài món nữ trang đáng giá.

Cô Bích, một thiếu phụ người Đà Nẵng nổi danh về bói toán mà cũng có lập am, lên đồng. Xưa kia, hồi còn Pháp thuộc, cô đã từng có chồng sĩ quan Pháp nhưng không có con. Là người thất học nhưng khi “đồng lên”, cô Bích viết chữ Hán đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là lời tiên thánh truyền dạy cho kẻ đến hầu cửa cô, một người mà khi đồng lên thì trở nên đẹp lộng lẫy với cặp mắt sắc như dao. Cô Bích đã tạ thế tại Đà Nẵng sau năm 1980.

Nhưng vị thầy bói nữ lừng danh hơn cả phải kể là bà Nguyệt Hồ ở đường Đinh Công Tráng. Vào khoảng cuối năm 1974, bà Nguyệt Hồ 43 tuổi, xưa kia đã từng nổi tiếng là hoa khôi.

Cả bốn vị nữ thầy trên đây đều đã thành công với nghề nghiệp và sống một cuộc đời sung túc, nếu không nói là vương giả. Các bà không những chỉ bóc bài, xem chỉ tay mà còn làm công việc giới thiệu tình duyên và gỡ rối tơ lòng. Các nữ thân chủ khi có chuyện rắc rối về gia đạo là tìm đến các bà như tìm đến những cái phao.

Đoạn kết buồn của các thầy bói nổi tiếng

Theo chuyện kể lại, trước 1975, nhờ làm ăn khấm khá, thầy bói Huỳnh Liên tậu một khu vườn nhà ở làng Vĩnh Phú, Lái Thiêu, Bình Dương để khi rảnh rỗi ông lại từ Sài Gòn về đây vui thú với vợ bé. Trong khi đó, bà cả vẫn ở Sài Gòn.

Sau năm 1975, nghề bói không còn được xem là hợp pháp, thầy Huỳnh Liên không có con và về ở hẳn với bà bé. Ông không tin tưởng bà vợ bé lắm, nên xâu chìa khóa mở tủ cất tiền và vàng ông luôn luôn giữ bên mình. Một hôm đường dây điện thoại tầng trên bị hỏng, ông sai bà đi gọi hai người cháu của bà lên sửa.

Tới chiều, hai đứa cháu tới nhà rồi theo ông chủ lên gác sửa điện, trong khi chị bếp đi bắt gà đãi khách. Khi chị bếp trở lại, nghe có tiếng động khả nghi, chị chạy lên tầng trên thì thấy một cảnh tượng hãi hùng: Một người cầm khúc dây điện ngắn xiết chặt cổ ông Huỳnh Liên, ông trợn mắt và không kêu la gì được.

Lúc công an đến thì ông Huỳnh Liên đã chết. Người ta thấy cái tủ cất giấu tiền, vàng của ông vẫn còn nguyên và đồ đạc trong nhà cũng không bị mất món nào. Trong lúc quýnh quáng tháo chạy, hai đứa cháu vợ ngoài việc cướp của còn quên mất hai cái áo còn cởi bỏ trong nhà. Trong túi áo hai kẻ sát nhân còn bỏ lại, có đầy đủ giấy tờ tùy thân của chúng. Nhờ đó, công an không mất nhiều công sức cũng tóm gọn cả hai tại nhà ngay trong đêm đó.

Ngày nay, nghề bói toán không được công nhận và các thầy bói chỉ hoạt động lén lút
Theo dòng chảy của lịch sử, các thầy bói của Sài Gòn cũ đã không còn những vị thế xã hội như xưa. Đoán vận mạng cho nhiều người nhưng cuối cùng thì các thầy cũng chẳng đoán được vận mạng cho chính mình. Những người lớn tuổi đã sống ở Sài Gòn lâu năm kể lại: cho đến năm 1972, thầy Khánh Sơn và các thầy Minh Nguyệt, Huỳnh Liên được mời lên truyền hình của chế độ cũ tiên đoán vận mệnh. Cả ba thầy đều nói những điều tốt đẹp. Không có thầy nào tiên đoán được biến cố long trời lở đất 30/4 để tháo chạy mà giữ lấy nghề.

Lăng Nhu

Theo Bưu Điện Việt Nam

Phong cách cà phê Sài Gòn xưa

Hồi xửa hồi xưa… có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt….

TRỞ VỀ THẬP KỶ 50 : CÀ PHÊ VỚ

Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh… có khói này là do các xếnh xáng A Hoành. A Coón. chú Xường, chú Cảo… chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.

Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu ? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc dợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi . . .”kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái “quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.

Có mấy khu vực có những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hù tíu. Ở Chợ Cũ có đường MacMahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi (nay là Cách Mạng Tháng 8) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.

Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm… Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận sáng hôm sau…

TRANG TRÍ CHUNG CỦA CÁC TIỆM CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀU

Sách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A Koón… thì đều chọn các nơi này làm chỗ kinh doanh. Tuy Sàigòn, Chợ lớn, Gia Định. Phú Nhuận, Đa Kao hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô-típ – made in China” khá giống nhau tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có

Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà !”

UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH

Như đã nói ớ trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng.

Cà phê được mang ra dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội.
Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách này, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải “, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá :

– “Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, Ở gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ-ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miếng giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”.

Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chìu khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà con hô lên “xà lẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu lại không uống bằng ly mà đi húp cà phê bằng đĩa, ông Sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệư” chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi vậy mới là… sành điệu !

Image
Một xe cà phê xưa với phong cách “sành điệu” ngồi chân trên, chân dưới

CÀ PHÊ PHIN HAY CÀ PHÊ “NỒI TRÊN CỐC”

Dòng cà phê… với cà phê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.

Một người tên ông Chín “cù lủ” một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.

Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới… “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.

Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện.văn chương và. . . rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố của dân Paris (Pháp).

Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê đặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mạn như hoa “com-phét-ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ…

Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.
Thời điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ giao lưu cửa giới thượng lưu Sàigòn.

Image
Một quán cà phê theo phong cách cà phê hè phố của Pháp

CÀ PHÊ TÂY

Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghê gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cùng mở một không gian cà phê sang trọng. đúng phong cách “Phăng-se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ.

Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thế thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.

Có thể nói từ giai đoạn này người Việt Nam ở Sàigòn “thức tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ bê và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác.

Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao… nữa mà nó thuần túy chi có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn.

CAFÉTÉRIA CA NHẠC

Để gần gũi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.

Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental. . . nơi đây không phải chỗ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí.

Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái . . Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm sáng lên rực rỡ ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.

Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria này. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.

Rồi tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đầy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày. Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Ánh đèn màu”.

Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico”, ca sĩ Ánh Tuyết mỗi lần trình diễn “Ánh đèn màu” là bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người.mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn… Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng còn thì Ánh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.

Tâm Triều.