Category Archives: Công trình

Thương xá TAX

Hình ảnh có tháp đồng hồ cổ kính
Hình ảnh có tháp đồng hồ cổ kính

Thương xá Tax có một lịch sử lâu đời và được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 19, là một phần của Sài Gòn xưa hoa lệ. Tòa nhà cùng với những công trình kiến trúc thời Pháp thuộc khác như Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, Nhà hát lớn thành phố, Dinh toàn quyền (nay là Hội trường Thống Nhất), Dinh Xã Tây (này là Ủy ban nhân dân thành phố) góp phần tạo nên một “Hòn ngọc Viễn Đông”, một “Ville de Sai Gon” tao nhã và sôi động bậc nhất Châu Á thời bấy giờ.

Hình ảnh tòa nhà GMC những năm 40
Hình ảnh tòa nhà GMC những năm 40

Thương xá Tax ngày ấy được mang tên Les Grands Magazins Charner (GMC) được xây dựng theo phong cách kiến trúc Pháp với những nét chấm phá mang đậm đường nét văn hóa Á Đông. Les Grands Magazins Charner tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng bazar sang trọng được nhập khẩu chủ yếu từ Anh, Pháp và các nước phương tây nhằm phục vụ cho giới thượng lưu Sài thành và các đại điền chủ Lục tỉnh Nam kỳ vào thời kỳ đó.

Cùng với việc kinh doanh tại GMC rất hưng thịnh, để tận dụng tối đa công năng và hiệu quả sử dụng tòa nhà, người chủ GMC đã quyết định đập bỏ tháp đồng hồ và xây thêm một tầng nữa, đồng thời chữ GMC được đặt trên nóc tòa nhà, quan khách có thể nhìn thấy từ rất xa.

Đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, tòa nhà GMC được Hội Mậu Dịch đổi tên thành Thương xá Tax, mặt bằng được chia nhỏ và cho các tiểu thương thuê vị trí để buôn bán. Vào thời kỳ này, việc mua bán vẫn rất nhộn nhịp, hàng hóa không khác mấy so với trước, đồng thời các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới bắt đầu được du nhập nhiều hơn vào Việt Nam.

Hình ảnh tòa nhà Tax vào thời VNCH
Hình ảnh tòa nhà Tax vào thời VNCH

Sau ngày 30/4/1975 tòa nhà Thương xá Tax được giao lại cho UBNDTP, Tòa nhà không còn là địa điểm kinh doanh sầm uất; mặt bằng thỉnh thoảng được tận dụng làm không gian trưng bày các mặt hàng, máy móc công nghiệp do các đơn vị quốc doanh của thành phố sản xuất.

Đúng ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/6/1978, một lần nữa Thương xá Tax được đổi tên thành Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố, với đội ngũ mậu dịch viên khăn quàng đỏ, đánh dấu sự náo nhiệt trở lại của tòa nhà tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh sau một thời gian trầm lắng.

Hình ảnh thiếu nữ với khăn quàng đỏ
Hình ảnh thiếu nữ với khăn quàng đỏ

Đến năm 1981, trên cơ sở sáp nhập Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi và các quầy hàng chuyên doanh trong tòa nhà trước đó, UBNDTP quyết định thành lập Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố trực thuộc Sở Thương Nghiệp để nâng tầm hoạt động, đáp ứng việc phục vụ rộng rãi nhu cầu người tiêu dùng và tòa nhà là một trong những cửa hàng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cùng biến động của thành phố, tòa nhà vẫn tiếp tục tồn tại một cách bền vững và lặng lẽ. Tuy nhiên, dấu ấn thời gian ngày một in hằn trên từng cây cột và từng mảng tường… bản thân tòa nhà cần được đầu tư sửa chữa một cách tổng thể.

Những năm cuối thập niên 90 của Thế kỷ 20, tòa nhà một lần nữa được cải tạo và chuẩn bị cho giai đoạn buôn bán tấp nập, thịnh vượng mới. Thời điểm này, tòa nhà trở thành một trung tâm giao dịch thực sự, hàng hóa tại đây vô cùng phong phú, từ hàng may mặc, mỹ nghệ đến những mặt hàng xa xỉ đều xuất hiện. Việc giao thương với người Nga rất được chú trọng nên thời kỳ này tòa nhà còn có một tên gọi khác là “chợ Nga”.

Ngày 18/10/1997, Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố được đổi tên thành Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn, trực thuộc Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA)

Cửa hàng bách hóa tổng hợp thành phố (1981-1990)
Cửa hàng bách hóa tổng hợp thành phố (1981-1990)

Ngày 19/01/1998, dòng chữ THƯƠNG XÁ TAX chính thức được đặt trên nóc tòa nhà thay thế dòng chữ Cửa Hàng Bách Hóa Tổng Hợp Thành Phố, đánh đấu sự trở lại của một thương hiệu đã tồn tại và ăn sâu vào nếp nghĩ của người Sài Gòn xưa.

Hình ảnh giai đoạn sau khi cải tạo mặt tiền
Hình ảnh giai đoạn sau khi cải tạo mặt tiền

Bước vào thời kỳ đổi mới, trước sự cạnh tranh từ các trung tâm thương mại do người nước ngoài đầu tư và quản lý, một lần nữa áp lực cạnh tranh đã buộc Thương xá Tax phải tự làm mới mình.

Ngày 26/4/2003, một Trung tâm Thương mại hiện đại mang tên THƯƠNG XÁ TAX được khánh thành trên cơ sở đại tu toàn bộ tòa nhà đã đáp ứng được sự mong đợi của lãnh đạo cũng như đông đảo nhân dân thành phố và du khách đến từ khắp nơi trên Thế giới.

Tòa nhà với câu chuyện hơn “100 năm lịch sử” đã và đang là một trung tâm thương mại sầm uất, lâu đời nhất tại Việt Nam; một địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng của Thành Phố Hồ Chí Minh, kết nối với những di tích vang bóng một thời như: Bưu điện Trung tâm Thành phố, Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát lớn Thành phố, Chợ Bến Thành, Dinh Độc lập và các Bảo tàng đã và đang cùng nhau góp phần quảng bá hình ảnh và con người Việt Nam nói chung và Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng đến với bạn bè thế giới.

Hình ảnh Thương xá Tax năm 2003
Hình ảnh Thương xá Tax năm 2003

Nguồn: Thương Xá Tax website

Bức tượng Gambetta

Bạn có biết, thời Pháp, ở Sài Gòn đã từng có một tượng đài ở giữa giao lộ Lê Duẩn và Pasteur ngày nay?

Đó là bức Tượng Gambetta.

Tượng Gambetta tại đại lộ Norodom
Vị trí 1: Tượng Gambetta tại giao lộ Norodom và Pasteur

Tượng Gambetta tại Sài Gòn ban đầu nằm giữa đường Norodom (nay là Lê Duẩn) và Pellerin (nay là Pasteur). Sau đó khi kinh đào Charner bị lấp để trở thành Đại lộ Charner (nay là Nguyễn Huệ), và Chợ cũ ở đại lộ Charner bị dỡ bỏ, thì khu đất Chợ cũ được cải tạo thành Quảng trường Gambetta, với tượng đài Gambetta được dời về đây, đặt ở gần phía cuối Quảng trường.

Quảng trường Gambetta tại vị trí chợ cũ
Vị trí 2: Quảng trường Gambetta tại vị trí chợ cũ

Quảng trường Gambetta (còn được gọi là Quảng trường Chợ cũ) nằm giữa 4 con đường: mặt trước là Đại lộ CHARNER (Nguyễn Huệ ngày nay), mặt sau là Đường GEORGES GUYNEMER (sau này là Võ Di Nguy, nay là Hồ Tùng Mậu), phía bên phải là Đường VANNIER (nay là Ngô Đức Kế) và bên trái là Đường Phủ Kiệt (nay là Hải Triều), nơi sau này có trụ sở Ngân Khố và Học viện Ngân hàng TPHCM. Vị trí tượng Gambetta trong hình 2 chính là vị trí hiện nay của tòa nhà Bitexco 68 tầng.

Khi trụ sở Kho Bạc được xây dựng trên khu đất này thì tượng Gambetta được dời về Công viên Tao đàn (khi đó mang tên Parc de Maurice Long hay Jardin De Ville, và người Việt hồi đó quen gọi là “Vườn Ông Thượng” hay “Vườn Bờ-rô”). Tượng Gambetta gần phía sau sân banh Tao Đàn.

Tượng Gambetta tại vườn Bờ-rô
Vị trí 3: Tượng Gambetta tại vườn Bờ-rô

Theo ông Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa thì năm 1945 khi Nhật đến VN, “chánh phủ Pháp muốn thâu dụng số đồng dùng vào chiến tranh, sai thợ nấu lão Gambetta, thì hỡi ôi! Thân lão là ersatz, đồ đồng giả, không dùng được…”

SƠ LƯỢC VỀ GAMBETTA

Léon Gambetta sinh ngày 2/4/1838 tại Cahors và mất ngày 31/12/1882 tại Sèvres (“thọ” 44 tuổi). Ông là một danh nhân chính trị gia Cộng hoà Pháp, làm Thủ Tướng (kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) từ 1881-1882, vào khoảng thời gian Pháp sắp bắt đầu đặt nền đô hộ trên đất nuớc VN. Ông cũng thuộc phái các chính trị gia ủng hộ việc xâm chiếm mở rộng thuộc địa cho Pháp quốc, do công trạng này mà Gambetta đã được dựng tượng tại Sài Gòn là thủ phủ của Nam kỳ là nơi đã bị Pháp chiếm sớm nhất.

Ảnh và Lời bình: manhhai

Bùng binh Hồ Con Rùa

Hồ Con Rùa từ đường Trần Cao Vân nhìn qua đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần)
Hồ Con Rùa từ đường Trần Cao Vân nhìn qua đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần)

VỊ TRÍ

Nguyên thủy ban đầu, tại vị trí Hồ Con Rùa hiện nay, vào năm 1790 là vị trí cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy). Về sau vua Minh Mạng đổi tên thành cửa Vọng Khuyết. Tuy nhiên sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835) thì vào năm 1837, nhà vua đã cho phá thành Bát Quái và xây dựng một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng. Vị trị cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông.

LỊCH SỬ: HỒ CON RÙA TRƯỚC ĐÂY TỪNG LÀ THÁP NƯỚC, SAU ĐÓ LÀ CÔNG TRƯỜNG CHIẾN SĨ TRẬN VONG RỒI MỚI TRỞ THÀNH HỒ CON RÙA NHƯ BÂY GIỜ

Vào năm 1878, tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng gọi là Công trường Tháp Nước (Place de Château d’eau). Tháp xây kiên cố, khá cao, có thang hình xoắn ốc dẫn lên tới đỉnh.

Tháp nước tại vị trí bùng binh Hồ Con Rùa năm 1878
Tháp nước tại vị trí bùng binh Hồ Con Rùa năm 1878

Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa. Vị trí này trở thành giao lộ như ngày nay, với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre (cắt giao lộ là đường Testard – nay là đường Võ Văn Tần – và đường Larclauze – nay là đường Trần Cao Vân).

Ngày 11/11/1927, người Pháp đã cho xây dựng tại vị trí này một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế chiến thứ nhất. Trong cuộc chiến tranh này, khoảng 9 vạn người Đông Dương – mà phần đông là người Việt Nam – bị Pháp bắt đưa sang châu Âu để đánh nhau với Đức hoặc làm việc trong các cơ xưởng quân sự. Công trình này được gọi là công trường Chiến sĩ trận vong hay công trường Ba Hình.

Công trường chiến sĩ trận vong với tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng và một hồ nước nhỏ được xây dựng năm 1927 để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế chiến thứ nhất
Công trường chiến sĩ trận vong với tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng và một hồ nước nhỏ được xây dựng năm 1927 để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế chiến thứ nhất

Sau đó, công trường này mang tên Thống chế Joffre (1852-1931), người từng cầm quân xâm lược nước ta ở Bắc Kỳ. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956, sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, thì tượng này cũng bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ.

Tượng đài ba binh sĩ Pháp để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế chiến thứ nhất bị dở bỏ vào năm 1956 trong thời VNCH
Tượng đài ba binh sĩ Pháp để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế chiến thứ nhất bị dở bỏ vào năm 1956 trong thời VNCH
Công trường Chiến Sĩ (1964), lúc này tượng đài ba binh sĩ Pháp đã bị dở bỏ chỉ còn lại tháp nước nhỏ
Công trường Chiến Sĩ (1964), lúc này tượng đài ba binh sĩ Pháp đã bị dở bỏ chỉ còn lại tháp nước nhỏ

Thời điểm xây dựng Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác. Một số tài liệu cho là nó được xây dựng vào năm 1965, vài tài liệu khác thì cho là 1967. Người thiết kế Hồ con Rùa là kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Mẫu thiết kế của ông được chọn trong cuộc thi tìm quy hoạch mới cho địa danh này (Nguyễn Kỳ nay sống tại Sydney, Australia).

VỀ CÔNG TRÌNH VÒNG XOAY HỒ CON RÙA

Từ 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang trong đó gồm việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bê tông cao có dạng như một bông hoa nhiều cánh, trên đỉnh là 1 hình tròn to tượng trưng cho đồng xu được hứng bởi những cánh hoa đó, hình ảnh này biểu tượng cho bàn tay xoè ra đón nhận viện trợ. Con rùa được làm bằng lá đồng mỏng, ốp trên khung sườn bằng thép góc và thép lá. Vì vậy không tốn kém mấy về vật liệu và dễ thực hiện. Bia trên lưng rùa một mặt thì khắc câu tri ân các quốc gia đã viện trợ, một mặt khắc tên tất cả các quốc gia này.

ho-con-rua
Hình ảnh con rùa bằng đồng với tấm bia trên lưng tại bùng binh Hồ Con Rùa ở Sài Gòn trước 1975

Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm. Vì vậy công trình xây dựng tại vòng xoay hồ con rùa chính là Đài kỷ niệm Viện trợ Quốc tế cho Việt Nam Cộng Hòa tức miền Nam VN trước năm 1975, khi VN còn chia cắt làm 2 phần nam bắc VN.

Hồ Con Rùa năm 1972 với hình con rùa bằng đồng cõng tấm bia tri ân các quốc gia viện trợ cho VNCH.
Hồ Con Rùa năm 1972 với hình con rùa bằng đồng cõng tấm bia tri ân các quốc gia viện trợ cho chính quyền miền Nam Việt Nam trước năm 1975
Công trình này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm.
Công trình này còn bao gồm một vòng xoay giao thông và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm
vòng xoay giao thông với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm.
vòng xoay giao thông với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm.

Sau khi xây dựng xong thì ban đầu khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế hay bùng binh Hồ Con Rùa vì dứơi chân có một con rùa đội bia.

Đài Viện Trợ Quốc Tế - Hồ Con Rùa 1972
Đài Viện Trợ Quốc Tế – Hồ Con Rùa 1972

Sau năm 1975, các dòng chữ trên tấm bia bị chính quyền mới sơn phủ lên che đi. Đường Duy Tân bị thay tên thành đường Phạm Ngọc Thạch còn đường Trần Quý Cáp đổi thành đường Võ Văn Tần. Vào đầu năm 1976 (hay 1978), tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, tuy con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen gọi là Hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức.

Khu vực vòng xoay hồ con rùa bao quanh bởi các quán cà phê, là nơi tấp nập về đêm và là một trong những vòng xoay có nhiều cây xanh nhất thành phố Hồ Chí Minh.

VỀ GIAI THỌAI HỒ CON RÙA

Theo lời thuật lại của nhà báo ngành Công an Huỳnh Bá Thành (Ba Trung) trong cuốn sách “Vụ án Hồ Con Rùa” (NXB Tuổi Trẻ 1982) thì có các giai thoại truyền miệng kể là vào năm 1967, khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Người thầy phong thủy này khen vị trí của dinh là vị trí của long mạch, trấn yểm vị trí của đầu rồng[3]. Cũng theo lời thuật trên thì con rồng này đầu tại dinh Độc Lập và đuôi nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ, tuy phát hưng vượng, nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, vì vậy cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy nữa thì mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Cũng vì thế, mà theo một số người thì kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm (hoặc cây đinh/kim), đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng, và khuôn viên hồ nước có hình bát quái, bên giữa có hình âm dương.

Một số người khác thì lại cho rằng kiến trúc tháp lại giống hình đuôi rồng vươn cao, nhưng có con rùa đè chặt ở phần đầu ngọn. Số khác thì lại cho là nhìn từ trên cao xuống thì toàn thể kiến trúc trông giống như một con rùa. Một số người lại đưa giải thích là sở dĩ làm hình con rùa, vì trong dân gian, con rùa mới đội bia (trên lưng rùa lúc đó -xây dựng khoảng năm 1972- có một bia đá ghi công (Xem hình: 1 và2), và nơi đây được thiết kế như một đài tưởng niệm) và ngụ ý “mang ơn”. Nhưng tất cả cũng chỉ là giả thuyết hay là giai thoại thêu dệt thêm.

HNVĐ tổng hợp

Cầu Mống

Cầu Mống xưa có 2 làn xe
Cầu Mống xưa có 2 làn xe

Trong số những cây cầu cũ xưa còn sót lại ở Sài Gòn, có lẽ Cầu Mống là cây cầu mang hình bóng của một thứ thời gian lắng đọng nhất trong tâm tưởng của rất nhiều người yêu quý thành phố có những cây cầu in vóc dáng của năm tháng đã qua đi trên một dòng sông. Cầu Mống là loại cầu sắt thiết kế kiểu Pháp và do Pháp xây dựng nên in đậm nét “văn hóa cầu” phương Tây, thành cầu uốn cong, có những khoảng trống, sơn đen bắc qua kinh Tàu Hũ nối quận 1 và quận 4 (đất Khánh Hội xưa). Chân cầu phía quận 1 nằm chếch công viên Diên Hồng đối diện đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ ). Sở dĩ gọi là công viên Diên Hồng vì phía sau đó là Hội trường Diên Hồng mà báo chí trước năm 1975 còn gọi là “Viện Bô Lão” vì đây là trụ sở Thượng Nghị Viện của chế độ cũ. Chân cầu phía quận 4 nằm trên đường Bến Vân Đồn thuộc địa phận phường 12, quận 4.

cau-mong-3

Cầu nầy do công ty vận chuyển Hàng hải Pháp Messageries maritimes bỏ vốn mướn công ty xây dựng Levallois Perret (tức Eiffel cũ) xây cất – có thể là trong cùng một giai đoạn với việc xây cất Cầu Quay Khánh Hội – do đó người Pháp cũng gọi cầu nầy là cầu “Công ty Messageries maritimes” (Công ty Đầu Ngựa) và người Việt Nam từ trước tới nay thường gọi là là cầu Móng Vĩnh Hội vì đây có thể là chiếc cầu đầu tiên có trụ móng. Cũng có thể vì hình dáng vòng cung của chiếc cầu giống như chiếc cầu vòng mống trời cho nên người dân bình dị Sài Gòn ngày xưa gọi nó là cầu Mống chăng? Cũng may là chiếc cầu Mống lịch sử nầy cho đến nay vẫn còn sống sót trong khi hình bóng chiếc cầu Quay Khánh Hội của Sài Gòn năm xưa đã không còn nữa.

Có hai khung đường xe chạy, một để đi lên cầu sang Vĩnh Hội và một để từ cầu phía Bến Vân Đồn/ Vĩnh Hội đi qua để xuống bến Chương Dương . Trước 30 tháng 04 năm 1975, bờ kinh Tàu Hủ ở dưới gầm cầu Mống phía bến Chương Dương là hai khuôn viên ấm cúng, thơ mộng và kính đáo cho những cặp tình nhân trẻ, già đưa nhau xuống đó tình tự ngày cũng như đêm.

cau-mong-1

Một điều ít người được biết đến: Cầu Móng là chiếc cầu đầu tiên của công ty Messageries Maritimes xây cất ngang qua con kinh Tàu Hủ và toà nhà Ngân Hàng Quốc Gia của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (thời Pháp thuộc là Banque de l’Indochine / Ngân Hàng Đông Dương) chỉ mới được xây cất sau khi Cầu Móng đã được sử dụng.

Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp

Nguồn: Từ Kế Tường & Nguyễn Công Chánh

Dinh Gia Long

Tọa lạc trên một khu đất rộng gần 2 ha, giới hạn bởi các con đường Lý Tự Trọng, Pasteur, Lê Thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa.

Dinh Thống Đốc Nam Kỳ (Dinh Phó Soái)
Dinh Thống Đốc Nam Kỳ (Dinh Phó Soái)

Thời Pháp thuộc

Khởi đầu, tòa nhà Bảo tàng được khởi công xây dựng vào năm 1885 và hoàn thành năm 1890 theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Alfred Foulhoux với mục đích sử dụng làm Bảo tàng Thương mại để trưng bày sản phẩm Nam Kỳ. Tuy nhiên, ngay sau khi xây xong, tòa nhà lại được Thống đốc Nam kỳ Henri Eloi Danel (1850 – 1898) dùng làm tư dinh. Về sau, tòa nhà được sử dụng hẳn làm dinh Thống đốc hay còn gọi là dinh Phó soái (trước năm 1911).

Thời Đệ nhị Thế chiến

Năm 1945, dinh Thống đốc nhiều lần đổi chủ. Sau khi quân Nhật tiến hành đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3, Thống đốc người Pháp Ernest Thimothée Hoeffel bị bắt; Thống đốc người Nhật là Yoshio Minoda sử dụng tòa nhà làm dinh thự.

Ngày 14 tháng 8, người Nhật giao lại dinh thự cho chính quyền Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam để làm dinh Khâm sai Đại thần Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm.

Đến ngày 25 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền, bắt giam Khâm sai Nguyễn Văn Sâm và Đổng lý văn phòng phủ khâm sai Hồ Văn Ngà tại dinh khâm sai. Sau đó, dinh trở thành trụ sở Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, rồi của Ủy ban Nhân dân Nam Bộ.

Ngày 10 tháng 9, Trung tá B. W Roe (phái bộ quân sự Anh) chiếm dinh làm trụ sở Phái bộ Đồng minh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam Bộ phải dời về dinh Đốc lý.

Đến ngày 5 tháng 10, dinh được tướng Leclerc dùng làm Phủ Cao ủy Cộng hòa Pháp tạm thời. Sau khi Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Đông Dương là Đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu chọn dinh Norodom làm Phủ Cao ủy, thì dinh lại trở thành nơi làm việc của tướng Leclerc, nhưng lần này với danh nghĩa chính thức là trụ sở của Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt Nam.

Trụ sở của Nam Kỳ Quốc
Năm 1948, trụ sở của Nam Kỳ Quốc

Nam Kỳ Quốc và Quốc gia Việt Nam

Sau khi tái chiếm Đông Dương, ngày 23 tháng 5 năm 1947, chính quyền Pháp đã bàn giao dinh cho Thủ tướng Lê Văn Hoạch để làm trụ sở chính phủ Nam kỳ quốc. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được thành lập và dinh được sau đó chuyển thành dinh Tổng trấn (sau đổi thành Thủ hiến) Nam phần dưới quyền sử dụng của Thủ hiến Trần Văn Hữu.

Tại đây, ngày 9 tháng 1 năm 1950, đã nổ ra một cuộc biểu tình lớn của hơn 6000 học sinh-sinh viên và giáo viên các trường, yêu cầu thả ngay những học sinh, sinh viên bị bắt vô cớ trước đó. Lúc 13 giờ chiều ngày hôm đó, chính quyền của thủ hiến Trần Văn Hữu đã huy động một lực lượng lớn cảnh sát để đàn áp, bắt giữ 150 người, đánh 30 người trọng thương tại chỗ, học sinh trường Petrus Ký là Trần Văn Ơn đã bị trúng đạn tử thương. Sự kiện này đã dẫn đến đám tang Trần Văn Ơn ngày 12 tháng 1 năm 1950, có đến 25.000 người tham gia.

Đảo chánh 1963
Quân đảo chánh trong dinh năm 1963. Trên tường đầy những vết đạn.

Việt Nam Cộng hòa

Sau Hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm về Sài Gòn nhận chức thủ tướng. Vì dinh Norodom còn do Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely đang sử dụng, nên dinh trở thành dinh Thủ tướng tạm thời từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 7 tháng 9 năm 1954. Dinh cũng được Quốc trưởng Bảo Đại đặt cho tên mới là dinh Gia Long. Con đường La Grandìere trước mặt cũng được đổi tên thành đường Gia Long.

Sau cuộc trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm dời phủ tổng thống sang đây và ở đây cho đến ngày bị đảo chính lật đổ vào tháng 11 năm 1963.

Trong thời gian 1964 –1965, dinh được dùng làm dinh Quốc trưởng. Ngày 31 tháng 10 năm 1966, khi dinh Độc Lập xây lại xong, tòa nhà này được dùng làm trụ sở của Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Bảo tàng TPHCM
Bảo tàng TPHCM ngày nay

Sau năm 1975

Sau 1975, tòa nhà tạm thời không dùng cho mục đích cụ thể nào. Ngày 12 tháng 8 năm 1978, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định sử dụng tòa nhà này làm Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 13 tháng 12 năm 1999 thì đổi tên thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay. Bảo tàng giới thiệu sự hình thành cũng như phát triển của Sài Gòn, các di tích khảo cổ, hiện vật về những sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, văn hóa gắn liền với Sài Gòn.

Kiến trúc

Tổng diện tích của kiến trúc bao gồm một tòa nhà rộng hơn 1.700 m² gồm hai tầng của tòa nhà chính và tòa nhà ngang thiết kế theo phong cách cổ điển – phục hưng, kết hợp Âu – Á: mặt tiền của tầng lầu mang đường nét Tây phương, nhưng phần mái lại mang dáng dấp Á Đông. Bao quanh khu nhà là một khuôn viên vườn hoa có hình dạng như một hình thang bao quanh bởi 4 con đường đã kể trên.

Do mục đích ban đầu của tòa nhà là Bảo tàng Thương mại trưng bày những sản vật trong nước, vì thế ở hai bên cửa chính có 2 cột trụ trang trí bằng hai tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp. Ngay phần chóp trên mái tam giác ở mặt phía trước được trang trí bằng một tượng đầu người nghiêm trang. Hai bên trang trí bằng các họa tiết đắp nổi như cành dương liễu, tràng hoa lá bao xung quanh, rắn khoanh tròn, hình tượng con gà tượng trưng cho ban ngày và chim cú tượng trưng cho ban đêm ở hai góc, một vòng hào quang phía sau đầu tượng.

Nhiều họa tiết khác đắp nổi trên mái là sự kết hợp giữa các biểu tượng thần thoại Hi Lạp và hình tượng cây cỏ và thú vật vùng nhiệt đới như họa tiết thằn lằn và chim cao cẳng chuyển động bằng cách uống cong hoặc xòe cánh.

Bảo tàng thương mại
Bảo tàng thương mại với 2 tượng nữ thần công nghiệp và thương nghiệp

Năm 1943, Thống đốc Nam Kỳ Ernest Thimothée Hoeffel lại cho phá bỏ hai tượng nữ thần tại cửa chính của dinh để xây dựng một mái hiên.

Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị lực lượng đảo chính ném bom, Tổng thống Ngô Đình Diệm dời về dinh Gia Long và cho xây dựng hầm bí mật trong dinh. Theo hồ sơ lưu trữ, hầm được xây dựng từ tháng 5 tháng 1962 đến tháng 10 năm 1963 thì xong, với tổng kinh phí 12.514.114 đồng lúc bấy giờ, và theo bản thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

Sự thật về căn hầm trong Dinh Gia Long

Ngày 27/2/1962, xảy ra vụ đảo chính, ném bom Dinh Độc Lập mưu sát gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm. Mặc dù cuộc mưu sát không thành nhưng sự kiện này khiến Ngô Đình Diệm lo sợ cho số phận của mình.

Ông ta liền dời về Dinh Gia Long và quyết định cho xây dựng một đường hầm bí mật để trú ẩn. KTS Ngô Viết Thụ được Ngô Đình Diệm tin cẩn giao cho việc vẽ bản thiết kế xây dựng đường hầm này. Sau khi KTS Ngô Viết Thụ sang Mỹ, Kỹ sư Phan Đình Tăng- Giám đốc Nha Kiều lộ là người duy nhất được giao nhiệm vụ thi công, kiểm soát nghiên cứu lại đồ án và hoàn tất bản vẽ.

Hầm được nhà thầu Trương Đăng Khoa xây dựng từ tháng 5/1962, đến ngày 30/10/1963 thì hoàn tất với tổng kinh phí là 12.514.114 đồng (tiền thời đó). Hầm được đào sâu xuống mặt đất 4 m, đúc bằng xi măng cốt sắt (170kg sắt/m3 bê tông), tường dày 1 m.

Với thiết kế này, các lọai trọng pháo và bom 500kg nếu có oanh tạc vào dinh cũng không làm sập hầm. Hầm có 6 cửa bằng sắt, đóng mở bằng cách xoay một bánh lái như cửa tàu thủy, phía trong còn có chốt sắt thật lớn để cài khi có sự cố.

Phần mặt đất phía trên nắp hầm được ngụy trang bằng những chậu cây cảnh. Trong hầm có hệ thống thông gió, hệ thống điện thắp sáng, hệ thống nước sạch và cống dẫn nước thải, nước mưa.

Tổng diện tích mặt bằng hầm là 1392,3m2 (30,6×45,5). Từ trên xuống hầm theo 2 đường cầu thang A (hướng đường Nam Kỳ khởi nghĩa) và cầu thang B (hướng đường Pasteur). Theo đường cầu thang A xuống gặp 2 phòng liền nhau: Phòng khách và phòng vệ sinh.

Theo đường cầu thang B xuống gặp phòng máy đèn. Từ phòng này đi xuống gặp ngay phòng của Ngô Đình Nhu và kế bên là phòng Ngô Đình Diệm với diện tích 17m2.

Phòng Ngô Đình Diệm đặt 1 chiếc bàn vuông, một cái bệ nhỏ và hệ thống thông tin liên lạc. Hầm có lối ra một lô cốt hướng đường Nam kỳ khởi nghĩa và 6 lỗ thông gió, 2 lỗ thoát nước bẩn.

Do yêu cầu bí mật, các giấy tờ liên quan đến việc xây dựng hầm trước ngày 11/11/1963 (ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ) đều tránh nêu từ “Hầm” mà chỉ là “Công tác xây cất ở Dinh Gia Long).

Hầm được xây trong thời gian gấp rút nên chưa trang bị các vật dụng tiện nghi. Thậm chí, đến khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, một hạng mục rất cần thiết có trong dự trù vẫn chưa hoàn thành, đó là hệ thống máy quạt để điều hoà không khí dù máy quạt đã được nhập về để ở Sở Nội dịch.

Ngày 1/11/1963, quân đảo chính đã tấn công vào hầm. Tại đây còn một lá cờ trắng, một số tài liệu viết tay ghi lại những cuộc điện đàm tại phòng của Ngô Đình Diệm.

6 giờ 45 phút ngày 2/11/1963, Dinh Gia Long thất thủ. Đúng vào thời điểm này, 2 ông Diệm và Nhu đang cầu kinh tại nhà thờ Francisco Xavier (Nhà thờ Cha Tam).

Do có mật báo nên vài phút sau đó, quân đảo chính đã cho chiếc M.113 đến nhà thờ Cha Tam. 2 ông bị trói đưa lên xe rồi bị đánh đập và bị bắn chết trên đường đi.

Xem clip về đường hầm trong Dinh Gia Long:

[youtube https://www.youtube.com/watch?v=sZYIOa2R1sY]Nguồn: Wikipedia, Tiền Phong.

Hý trường Đại Thế Giới

Đại Thế Giới, tên Tây là Casino Grande Monde, một trong những sòng bạc lớn nhất Đông Dương trong thế kỷ 20 do người Pháp lập ra vào năm 1937. Mãi đến năm 1955 mới bị đóng cửa dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Trước khi Đại Thế Giới xuất hiện, người Tầu thao túng việc bài bạc tại khu vực Chợ Lớn. Để giành lại mối lợi này, chính quyền Pháp tại Nam Kỳ đứng ra bảo trợ và thành lập sòng bạc Đại Thế Giới nhằm thu hút các con bạc khắp khu vực Saigon-Cholon. Hàng năm chính quyền bảo hộ thu được nguồn thuế rất lớn từ sòng bạc này. Ngoài bài bạc, Đại Thế Giới còn là tụ điểm ăn chơi, hút sách, trai gái nổi tiếng khắp cả nước thời Pháp thuộc.

Đại Thế Giới được người Pháp chính thức cho thành lập với các lý do: thà cho cờ bạc công khai, có lấy thuế, còn hơn để kiểu cờ bạc lén lút nhưng tràn lan vừa thất thu thuế, vừa xúc phạm đến quyền lực của chính phủ bảo hộ Pháp. Đồng lúc thành lập Đại Thế Giới còn có sòng bạc Kim Chung ở khu vực Cầu Muối (nay là Khu Dân Sinh, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1). Kim Chung có qui mô kém hơn, đối tượng chơi thuộc loại bình dân, nên mỗi khi nhắc tới casino tiêu biểu của Saigon, người ta hay nói đến Đại Thế Giới.

Đại Thế Giới ngày xưa nằm trên đường Gallieni (nay là Trần Hưng Đạo B) chiếm một khuôn viên rộng lớn của Trung tâm Văn hóa ngày nay. Khu đất rộng mênh mông, vòng rào xây tường cao, cửa ra vào có bảo vệ mặc đồng phục canh gác cẩn mật. Người ta ra vào tự do, nhưng không phải ai cũng mạnh dạn bước vào, bởi muốn bước vào phải có tiền và bởi cái ‘Sát Khí’ của Thần Đỏ Đen luôn vừa quyến rũ thiên hạ, lại vừa hù dọa mọi người.

Trên cổng lớn sáng rực ánh đèn néon, hàng chữ Grande Monde như một lời xác nhận với mọi người dân Sài Gòn thời đó rằng nơi đây là sòng bạc được nhà nước bảo trợ, cứ mặc tình mà sát phạt. Giấy phép hoạt động là của nhà nước bảo hộ cấp, nhưng sòng bạc lại do tư nhân điều hành.

Casino Grande Monde xưa trên đường Gallieni
(nay là Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn)

Ngay từ đầu khai trương, chủ thầu là một tay đầu nậu casino, Lâm Giống, từ Hồng Kông đến. Sở dĩ người Pháp cho các tay Hồng Kông trúng thầu vì họ hiểu rằng, chỉ những người từng am tường về tổ chức sòng bạc tầm cỡ thì mới có khả năng đưa Đại Thế Giới lên ngang tầm với các sòng bạc ở Á Châu.

Lâm Giống vốn xuất thân từ các sòng bạc ở Macau, đã sành sỏi về tổ chức casino, do đó ông ta đã rập khuôn từ mọi hình thức đến mọi mánh khóe. Cùng kéo sang ‘miền đất hứa’ Sài Gòn với chủ còn có những cô ‘hồ lì’, người đứng điều khiển cuộc chơi của từng môn đỏ đen, theo cách gọi của người Trung Hoa. ‘Hồ lì’ lúc nào cũng xinh đẹp và sành điệu, thừa sức làm vui lòng khách chơi, dù có bị thua cháy túi.

Ngay từ lúc mới mở cửa, Đại Thế Giới đã thu hút ngay số khách đỏ đen ở mức kỷ lục: những tuần lễ đầu có đến hàng ngàn người tới thử thời vận mỗi ngày, nhà chứa bạc thu vô không dưới một triệu đồng (một triệu đồng bạc Đông Dương hồi đó hết sức lớn, bằng bạc tỷ bây giờ). Tiền thuế nộp cho nhà nước cũng không ít, từ 200.000 sau lên 300.000 và có lúc lên đến 500.000 đồng một ngày. Thế mà chủ chứa vẫn hốt bạc nhiều hơn bất cứ ngành kinh doanh nào khác.

Khách chơi lúc đầu còn giới hạn trong giới trung lưu, đến người nhiều tiền, lần hồi thu hút tới những giới bình dân, cả phu kéo xe, phu bốc vác bến tàu, vì có đủ hình thức chơi, từ hốt me, tài xỉu, đến ru-lét… Người chơi không cần phải động não nhiều, và cũng không cần có nhiều vốn. Nhiều thua nhiều, ít thua ít, chỉ không đánh mới không thua! Vậy mà Đại Thế Giới như có bùa, như ma túy gây nghiện, nó có thứ ma lực lạ lùng càng lúc càng lôi cuốn người Sài Gòn như con thiêu thân trước ánh đèn.

Đã xảy ra nhiều cuộc chiến từ Đại thế giới. Cuộc chiến giữa khách chơi và nhà cái, cuộc chiến giữa bản thân người chơi và gia đình họ, và cuộc chiến cực kỳ quyết liệt giữa những thế lực để giành quyền chi phối sòng bạc.

Từ ngày Đại Thế Giới mở ra, đã có không biết bao nhiêu thảm cảnh gia đình. Có người là công chức cấp cao của nhà nước, giàu sang tột bực, vậy mà chỉ trong vài tuần ‘làm quen’ với Grande Monde đã nướng hết sản nghiệp vào đó, và tất nhiên là nướng cả cuộc đời. Có những người vợ, những cô này bà nọ, chỉ vì ham vui, vào thử vài lần rồi bắt bén vào tiếp và….. cuối cùng lột hết vòng vàng nữ trang, lấy cắp cả tiền nhà, cúng sạch, và sau đó cũng cúng luôn cả cái ngàn vàng của mình! Thời đó cầu Bình Lợi được xem là nơi kết liễu những cuộc đời bất hạnh, sau một đêm cháy túi ở Đại Thế Giới….

Cả Sài Gòn và vùng phụ cận, cả Nam Kỳ Lục tỉnh và cũng không thiếu người ở những miền xa của đất nước đổ xô về Đại thế Giới lập lòe ánh sáng ma quái, để chơi, để khóc và… để chết. Trong khi đó, một cuộc đổ xô khác, ở phía những thế lực muốn nắm Đại Thế Giới, cũng đến hồi quyết liệt.

Đại Thế Giới như rồng gặp mây khi Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều Nguyễn, được người Pháp giao lại nguồn lợi như một món quà ân thưởng. Phòng Nhì Pháp sau khi chiêu hồi Bảy Viễn (Lê Văn Viễn), thủ lĩnh Bình Xuyên, về thành đã gắn cho ông lon đại tá.

Cựu hoàng Bảo Đại
Cựu hoàng Bảo Đại

Theo hồ sơ về tỷ phú Hoa kiều Lý Long Thân do Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa lập, hiện lưu trữ tại Cục lưu trữ Việt Nam, thì để cầu thân với Bảy Viễn, Lý đã bỏ số tiền hơn 4 triệu franc để tổ chức tiệc chiêu đãi Bảy Viễn và đàn em tại hý trường Đại Thế Giới. Sau đó, Lý còn đề nghị Bảy Viễn đứng ra thầu lại sòng bạc Đại Thế Giới dưới sự hỗ trợ về tài chánh của chính mình (500 ngàn đồng Đông Dương một ngày) và sự bảo trợ của Quốc trưởng Bảo Đại.

Năm 1951, Bảo Đại đặt mua một chiếc Jaguar Mark II to đùng, phía trước mũi xe có gắn một con báo Nam Mỹ bằng đồng. Đây là chiếc ‘con báo’ duy nhất có mặt tại Việt Nam trong cùng thời điểm. Bảo Đại mua nó vì thích, sau đó dự định sẽ để dành làm quà sinh nhật cho hoàng tử Bảo Long. Nhưng cuối cùng lại nổi hứng, ông đã đem tặng nó cho viên tướng lục lâm Lê Văn Viễn, như quà mừng vì tay này đã thâu tóm được sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, hàng tháng đem lại cho Bảo Đại một số tiền cống nộp kếch xù.

Vào năm 1955, nhằm thống nhất các lực lượng Quốc gia, cắt đứt nguồn tài trợ của Bảy Viễn cũng như xóa bỏ lối sống đồi trụy tại đây, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh đóng cửa Đại Thế Giới. Đầu năm 1955 đánh dấu ngày tàn của Grande Monde, khi chính quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh dẹp sòng bạc lớn nhất Đông Nam Á. Phần đông người Sài Gòn thở phào nhẹ nhõm mỗi khi đi ngang qua nơi xưa kia vốn vừa là Thiên Đàng vừa là Địa Ngục. Tuy nhiên, các đệ tử của Thần Đổ Bác chắc hẳn… buồn năm phút!

Nguồn: blog Nguyễn Ngọc Chính

Trường trung học Nguyễn Bá Tòng

Một số hình ảnh của trường trong kỷ yếu 1973:

– Năm 1956: trường được thành lập mang tên vị Giám mục tiên khởi của Công Giáo Việt Nam có sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan  Caritas Germanica Đức Quốc, cơ quan NCWC, Công Giáo Hoa Kỳ. Trường toạ lạc tại số 73-75 đường Bùi Thị Xuân, quận 1 Sài Gòn. Trường có nhiều cấp lớp từ đệ thất đến đệ nhất đủ các môn A, B, A đặt dưới quyền đìều khiển của 8 vị linh mục cùng với sự giáo dục của 160 vị giáo sư, 30 nhân viên văn phòng ( ghi nhận vào năm 1963). Là một trường trung học tư thục nhưng trường được đánh gíá cao trong việc giáo dục, uy tín nhất thủ đô.

– Từ năm 1971: trường chỉ dành riêng cho học sinh nữ

– Từ năm 1975: trường trở thành trường trung học phổ thông công lập và trường được đổi tên thành trường THPT Bùi Thị Xuân, dành cho cả học sinh nam và nữ.

Mặt trước của trường Nguyễn Bá Tòng
Mặt trước của trường Nguyễn Bá Tòng
Tòa nhà chính
Ngôi nhà 3 tầng đầu tiên được xây cất vào năm 1955, dài 80m, rộng 10m, gồm 25 phòng học, 2 phòng Giáo sư, 1 thư viện và một số phòng nhỏ sử dụng cho Ban giám thị
Khu kỹ thuật
Hai tầng lầu trên cùng Học khu Kỹ thuật này sử dụng cho 3 phòng Gia chánh, 3 phòng Cắt may, 1 phòng kế toán (máy chữ), 1 phòng Giáo sư và 7 phòng học. Tầng dưới cùng gồm 3 lớp học, 1 văn phòng, 1 thư quán và 1 phòng liên lạc.
Khu nhà gạch
Ngôi nhà 4 tầng phía tay trái xây cất năm 1966, dài 50m, rộng 10m, gồm 25 phòng học
Ngôi nhà 4 tầng phía tay mặt xây cất vào năm 1968, dài 50m, rộng 10m, gồm 17 phòng học, một phòng thí nghiệm và một nguyện đường
Khu nhà cây
Ngôi nhà cây 2 tầng xây cất năm 1956, dài 50m, rộng 12m, gồm 9 phòng học và 1 phòng Giám thị.
Phòng gia chánh
Một phòng Gia chánh thuộc học khu Kỹ thuật Nguyễn Bá Tòng
Phòng kế toán
Một phòng Kế toán (Máy chữ) Nguyễn Bá Tòng
Phòng thí nghiệm
Phòng thí nghiệm Nguyễn Bá Tòng trị giá hơn 6 triệu đồng do cơ quan bác ái Đức Quốc viện trợ
Xếp hàng, trật tự và kỷ luật
Xếp hàng, trật tự và kỷ luật
Lớp tu nghiệp
Cộng tác với Ủy ban Giáo dục Địa phận Sài Gòn tổ chức lớp tu nghiệp Y học cho quý vị Giám thị của hơn 30 trường Trung, Tiểu học Giáo khu Sài Gòn từ 19-4-1972 đến 1-6-1972

Trích Kỷ yếu 1973 Nguyễn Bá Tòng

Trường Trung học Marie Curie (Lycée Marie Curie)

TRƯỜNG TRUNG HỌC MARIE CURIE – 159 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

Trường Trung Học Marie Curie là một trong những trường trung học lâu đời nhất của Sài Gòn và là trường duy nhất không thay đổi tên ban đầu. Trường được đặt tên theo nhà khoa học người Pháp đoạt giải Nobel tên Marie Curie.

Trường Marie Curie trước năm 1975
Trường Marie Curie trước năm 1975
Cổng trường Marie Curie ngày nay
Cổng trường Marie Curie ngày nay

 

Tượng nhà khoa học người Pháp bà Marie Curie trong khuôn viên trường
Tượng nhà khoa học người Pháp bà Marie Curie trong khuôn viên trường

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH:

Thời Pháp:

– Năm 1915: một giáo sư người Pháp tìm mặt bằng và khởi công xây dựng trường.

– Năm 1918: Hòan tất việc xây trường. Thành lập trường Cao đẳng Tiểu học nữ sinh người Pháp (EPS des J.F FranCaises). Trường được dành cho các nữ sinh ngừơi Pháp và một số ítc các nữ sinh người Việt trong các gia đình giàu có và có thế lực. Trong khuôn viên của trường có cả một khu nội trú dành cho học sinh ở tỉnh lên học. Tất cả các môn học đều được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Trường có một ban giám hiệu Pháp quản lý.

– Năm 1939: Trường có 855 học sinh  ( một số lớp sĩ số hơn 48 học sinh ).

– 1941 – 1946: đây là thời gian khó khăn chung của ngàng giáo dục do ảnh hưởng chiến tranh. Học sinh phải học trong điều kiện thiếu thốn mọi mặt.

– Năm 1941: Người Nhật tham chiến ở Đông Dương, các dãy phòng học trở thành bệnh viện dành cho người Nhật.

Trường EPS di dời sang trường mẫu giáo đường Duy Tân ( trường Đại Học Kinh Tế sau này).

– Năm 1942: Trường lấy tên là trường Trung học Cơ sở Calmette (Collège Calmette).

Ngày 9 tháng 3 năm 1945: Nhật đảo chính Pháp. Trường bị đóng cửa. Trường trở thành trại tập trung lính hải quân người Pháp.

– Năm 1946: Trường đổi tên một lần nữa là Trung tâm Trung học Lucien Mossard (Centre Secondaire Lucien Mossard) với 300 học sinh với 8 lớp từ lớp 6 đến lớp 9.

Năm 1947 : Trường khai giảng trở lại và hoạt động như một trường tiểu học dưới tên Petit Lycée Calmette.

–  Năm 1948: với quyết định ngày 12/12/1947, trường Trung học nữ sinh Pháp được thành lập dưới tên trường Trung học Marie Curie (Lycée Marie Curie). Trường có 2.500 học sinh, 80 giáo sư và 5 giáo viên tiểu học. Thành lập thêm 2 cơ sở phụ : Lamartine và Colette.

Thời VNCH:

 Năm 1970: Trường Marie Curie phải tiếp nhận các học sinh của trường trung học nam sinh Lê Quý Đôn (tên cũ: trường Jean Jacques Rousseau) do chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ lấy lại trường Lê Quý Đôn. Từ đó trường có nhận nam học sinh.

– Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975: Trường Marie Curie được giao lại cho Sở Giáo dục TP.Hồ Chí Minh và chính thức trở thành trường công lập.

– Năm 1997: Trường Marie Curie trở thành trường trung học bán công với tên Trường THPT Bán Công Marie Curie.

Sau năm 1975:

– Năm 2006: Trường chuyển trở lại thành trường công lập với tên Trường THPT Marie Curie. Đồng thời, đồng phục hiện nay là nữ sinh của trường sẽ là váy dài xanh, áo trắng vào các ngày thường, còn thứ 2 đầu tuần và các ngày lễ mặc áo dài, nam mặc quần xanh, áo trắng.

Hiện giờ, cùng với trường THPT chuyên Lê Hồng Phong và THPT Nguyễn Thị Minh Khai, trường Marie Curie là một trong 3 trường THPT có dạy Pháp văn .

DANH SÁCH CÁC HIỆU TRƯỞNG TỪ NĂM 1948 – 1975:

1948-1950:Bà Brissaud

1950-1954:Bà Fortunel

1954-1965:Ông Castagnon

1965-1974:Ông Gages

1974-1975:Ông Thevenin

MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA TRƯỜNG TRUNG HỌC MARIE CURIE TRƯỚC 1975:

Một góc sân trường
Một góc sân trường
Một góc sân trường
Một góc sân trường
Giờ sinh hoạt dưới sân trường
Giờ sinh hoạt dưới sân trường
Giờ sinh hoạt dưới sân trường
Giờ sinh hoạt dưới sân trường

 

Giáo sư của trường thời Pháp
Giáo sư của trường thời Pháp

 

Nữ học sinh của trường thời Pháp lúc tan trường về
Nữ học sinh của trường thời Pháp lúc tan trường về
Nam và nữ học sinh của trường niên khoá 1974 - 1975
Nam và nữ học sinh của trường niên khoá 1974 – 1975

Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp

Trường nữ Trung học Lê Văn Duyệt

Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt nay là trường trung học phổ thông Võ Thị Sáu – 95, Đinh Tiên Hoàng, P3, Q. Bình Tạhnh, Tp. HCM. Đây được xem là một trong những trường trung học phổ thông có chất lượng giáo dục tốt hiện nay.

Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt
Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt ở số 95 – Đại lộ Lê Văn Duyệt, Gia Định, nay là số 95 – Đinh Tiên Hoàng, Q. Bình Thạnh.

Lịch sử

Thời Việt Nam Cộng hòa

– Năm 1957: trường được thành lập, lúc ấy mang tên trường Trung học Trương Tấn Bửu tọa lạc trên đường Chi Lăng, gần Lăng Ông thuộc xã Bình Hòa tỉnh Gia Định, nơi thờ phượng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt, nằm trong khuôn viên của trường Tiểu học Nam tỉnh lỵ, nay là trường THCS Lê Văn Tám. Ban đầu trường có 3 lớp đệ thất gồm lớp nam và lớp nữ.

– Năm 1959: trường vẫn nằm tại vị trí trên nhưng tách nam sinh ra học tại trường Hồ Ngọc Cẩn nay là trường Nguyễn Đình Chiểu, còn nữ sinh có 6 lớp vẫn học tại trường.

– Năm 1960: tòa tỉnh trưởng Gia Định đã cấp cho môt khu đất để xây trường, trên một diện tích rộng lớn, vốn là đầm rau muống, trường được xây dựng mới, dời về số 95, đại lộ Lê Văn Duyệt, GIa Định, nay là đường Đinh Tiên Hoàng và đổi tên thành trường Nữ Trung học Lê Văn Duyệt, vừa có cấp II và cấp III, với đồng phục áo trắng.

– Năm 1963: vì trường chưa có lớp đệ nhất nên học sinh sau khi học lớp đệ nhị phải chuyển qua trường Trưng Vương để học đệ nhất.

– Vài năm sau 1963: thì trường đã có lớp đệ nhất và học sinh không còn phải từ giã trường của mình sớm một năm để qua trường Trưng Vương học lớp đệ nhất nữa.

Nữ sinh Lê Văn Duyệt năm 1970
Nữ sinh Lê Văn Duyệt năm 1970
Liên hoan lớp khoá 68, trường Lê Văn Duyệt
Liên hoan lớp khoá 68, trường Lê Văn Duyệt

* Những hiệu trưởng đầu tiên từ khi trường mới thành lập đến năm 1977:

– Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Lê Ngọc Toản. Lớp nam sinh sau đó đã dược chuyển về Hồ Ngọc Cẩn.

– Năm 1959 – 1960: cô Bùi Thị Lắm đã trở thành vị Hiệu trưởng thứ nhì, đã đích thân khánh thành ngôi trường khi trường được dời qua vị trí mới

– Từ cuối tháng 11 năm 1963 đến đầu năm 1964: Giáo sư Phạm Thị Diệu Linh rồi sau đó cô được điều về trường Trưng Vương làm Giám Học.

– Vị Hiệu trưởng kế tiếp là cô Nguyễn Ngọc Hương

– Năm 1977: Trần Hoàng Mai đã trở thành vị Hiệu trưởng cuối cùng.

Sau năm 1975

– Năm 1975: trường được đổi tên thành trường cấp III Võ Thị Sáu.

– Năm học 1978 – 1979: trường giải thể cấp II, thu nhận cả nam sinh và nữ sinh, trở thành trường Trung học Phổ thông Võ Thị Sáu.

– Từ 1975 – 1999: trường có 16 phòng học, một số phòng chức năng, lúc nhiều học sinh nhất có 37 lớp cả 3 khối.

(Tổng hợp)

Trường Trung học Võ Trường Toản

Cổng trường Võ Trường Toản

Vài nét về trường trung học

Ai cũng biết cụ Võ Trường Toản là một cao sĩ miền Nam, là một ẩn nho không màng danh lợi, an bần lạc đạo và vui cùng việc dạy dỗ học trò trong số đó có Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh … nhưng lai lịch của trường Võ Trường Toản thì ít ai biết đến.

Khách nhàn du từ Văn Miếu trong Thảo Cầm Viên nhìn ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm hẳn thấy một dãy nhà ba tầng cao ngạo nghễ vươn lên khỏi đám cây xanh: đó là trường Trung học Võ Trường Toản.

Cách đây mười sáu năm, trường ra đời trong một trường hợp khá đặc biệt.

Địa điểm của trường Võ Trường Toản ngày nay, trước kia là của trường Sư phạm Việt Nam 1955, theo một quyết định của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, trường Sư phạm Nam Việt sẽ được bãi bỏ lần lần và cũng nhờ thế, trường Võ Trường Toản có điều kiện thuận tiện để thành lập, thế chỗ lần cho những lớp của trường Sư phạm Nam Việt mỗi năm mỗi bớt đi.

Trong niên khóa 1955-1956, trường Võ Trường Toản có ba lớp đệ thất. Học sinh không do nhà trường trực tiếp tuyển nhận mà là những thí sinh đậu kế tiếp trong kỳ thi tuyển vào Đệ thất trường Pétrus Ký khóa tháng 7 năm 1955.

Trường Võ Trường Toản được chính thức hóa do Nghị định số 62 NĐ/GD ngày 7-2-1956 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Tuy thế nhưng trong niên học 1955-1956 trường Võ Trường Toản vẫn còn phụ thuộc vào trường Sư phạm Nam Việt. Kể từ sau ngày 13-9-1956, trường Sư phạm Nam Việt được dời về trường Quốc gia Sư Phạm thì trường Võ Trường Toản mới hoạt động riêng biệt dưới sự điều khiển của một vị Hiệu trưởng và tuy là một trường Trung học, trường vẫn phải phụ trách thêm một Ban tiểu học gồm 5 lớp với 199 học sinh.

Trong mấy năm đầu, nhà trường đã gặp nhiều khó khăn: trường sở tương đối rộng rãi nhưng lại thiếu bàn ghế, thiếu dụng cụ, vật liệu, thiếu nhân viên văn phòng, giám thị (kể cả hiệu trưởng chỉ có 4 người trong niên khóa 1956-1957)

Nhưng sau đó trường đã phát triển rất nhanh về số lượng nhân viên và học sinh. Kể từ tháng 9 năm 1960, nhà trường được Bộ Quốc Gia Giáo Dục  mở 2 lớp Đệ nhất và năm 1961 được công nhận là một trường Trung học Đệ nhị cấp tại thủ đô. Hiện nay trường sở đã được mở rộng đến mức tối đa, gồm có 20 phòng học, một phòng thí nghiệm (thiết lập năm 1959) với nhiều dụng cụ tối tân để làm nơi học tập khoa học cho học sinh. Năm 1970, với sự giúp đỡ của Hội Phụ huynh học sinh, một thư viện đã được thành hình để giúp học sinh mở rộng thêm kiến thức. Cũng trong năm 1970 này, một câu lạc bộ, một quầy hàng Sinh tiếp vụ và một phòng hớt tóc giá hạ được thiết lập ngay trong trường nhằm giúp học sinh có nơi ăn uống, hớt tóc và mua sắm mọi vật dụng cần thiết với giá rẻ. Năm 1971, trường đã xây thêm phòng Sinh hoạt học đường để giúp các em học sinh có nơi hội họp, sinh hoạt văn nghệ, báo chí …

Số lớp học, số giáo sư và nhân viên cũng như học sinh tăng rất nhanh. Để có 1 ý niệm rõ rệt về sự phát triển vượt bậc của trường Võ Trường Toản, ta thử so sánh số lớp, số giáo sư và học sinh trong vòng 15 năm nay.

Cơ sở và tổ chức

[slideshow]